300x250 AD TOP

Trần Hải Anh (PD.Châu Nhật Vi)

Powered by Blogger.

About Me

My photo
Cuộc đời của Con là công trình của Ba, Mẹ.

VIỆT NAM & ĐẠO PHẬT

TẠI SAO??? - Ở VIỆT NAM,  CÁI GÌ HAY HO  CŨNG THUỘC VỀ/LIÊN QUAN TỚI ĐẠO PHẬT Đó là vì những điều lịch sử cơ bản như sau: (*) 1.      Thời...

Search This Blog

Search This Blog

Translate

Translate

Pages

Thursday, February 28, 2019

Quản trị đa văn hóa


Như ta đã biết, văn hóa là những thành tựu vật thể/phi vật thể phục vụ đời sống được hình thành trong suốt quá trình lịch sử lâu dài của một cộng đồng người. Mỗi cộng đồng người với bối cảnh sống khác nhau đã sáng tạo nên những nền văn hóa khác nhau (sự đa dạng văn hóa). Ngày nay, khi sự kết nối toàn cầu đang diễn ra mỗi lúc một nhanh chóng, yêu cầu của thời đại đã đòi hỏi nhiều cá nhân đến từ nhiều nền văn hóa phải quy tụ lại trong một tổ chức - cùng hợp tác với nhau để thực hiện những mục tiêu lớn lao hoặc hoàn thành những công việc mang đặc trưng của xã hội thời hội nhập (Hợp tác quốc tế, liên kết khu vực, cạnh tranh toàn cầu, v.v...) 

Do đó, ta cần có một tư tưởng hợp lý để san bằng những khác biệt, loại bỏ những xung đột khi những cái tôi khác nhau (đại diện cho những nền văn hóa khác nhau) va chạm trực tiếp/gián tiếp với nhau trong cùng một tổ chức. Đây chính là lý do để những lý thuyết về quản trị đa văn hóa được hình thành. Những hiểu biết này có thể giúp cho mỗi cá nhân hội nhập toàn cầu tốt hơn, giúp cho các doanh nghiệp với thành phần nhân sự đa dạng hoạt động hiệu quả hơn. 

1. Văn hóa tác động đến con người

Con người là một đối tượng mang tính xã hội đậm nét do luôn sống trong môi trường xã hội hóa suốt cuộc đời mình. Mỗi cá nhân dựa vào văn hóa của cộng đồng mình (những khuôn mẫu hành vi, hình ảnh biểu tượng) để thích ứng vào đời sống cộng đồng, học tập, chia sẻ, tương tác lẫn nhau trong cuộc sống và chuyển giao cho các thế hệ con cháu tiếp nối. Lâu dần, văn hóa xây dựng nên rất nhiều thói quen (những niềm tin cố thủ - định kiến) trong tiềm thức của mỗi thành viên. Vì vậy, khuynh hướng in sâu vào tiềm thức của các thành viên trong những nền văn hóa khác nhau là kỳ thị sự đa dạng - ghét bỏ sự khác biệt -  Làm phát sinh các hiện tượng gây bất lợi cho sự hòa hợp giữa các nền văn hóa như lựa chọn xã hội - "dán nhãn" lẫn nhau, định khuôn, phân biệt "Họ" và "Chúng ta", làm mất vị thế, phân biệt đối xử, áp đặt quyền lực hay phủ nhận những cái "khác mình"!

Do đó, nếu cứ để tự nhiên thì sự hòa hợp sẽ là bất khả thi giữa các nền văn hóa khác nhau. Vì vậy, mỗi cá nhân, mỗi nền văn hóa phải dùng lý trí để mở lòng hiểu biết lẫn nhau nhiều hơn - Vượt lên trên sự khác biệt - Hóa giải hết những định kiến trên con đường hợp tác cùng phát triển.

2. Hóa giải định kiến

Nhiệm vụ hóa giải định kiến trong mỗi tổ chức/doanh nghiệp/tập thể được chia đều cho những người mang tư tưởng định kiến - người bị định kiến và môi trường xung quanh. Do định kiến sẽ gây ra thiệt hại cho tất cả các bên và sự hóa giải định kiến thì cần sự phối hợp của tất cả các bên. 


Bất lợi của định kiến đối với người chịu sự định kiến là căng thẳng tâm lý, tự ti/mặc cảm, tự định kiến ngược trở lại bản thân mình, giảm cơ hội tham gia vào xã hội do không có tiếng nói, không đóng góp được gì cho xã hội. Người định kiến về người khác thì dễ đối diện với nguy cơ bị trả đũa, khiến tổ chức không huy động được tối đa nguồn lực để phát triển do hay châm ngòi mâu thuẫn, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ. Trong một tổ chức có tồn tại định kiến thì nguy cơ bất ổn luôn tiềm tàng, tập thể bị xé lẻ thành nhiều mảnh rời rạc, phân tán, thụ động không hợp tác được với nhau, không làm nên được thành công lớn lao cho tổ chức và xã hội. 

Vì vậy, ai cũng phải góp sức mình vào việc xóa bỏ định kiến. Người gánh chịu định kiến phải vượt qua tự ái, vượt qua sợ hãi mà chủ động, mạnh dạn - tự tin thể hiện mình qua những kết quả/thành tựu thiết thực, tích cực trong thực tế, chịu khó học hỏi, nâng cao năng lực và kiên nhẫn mở lòng trước khi đối tượng mang tư tưởng định kiến hiểu mình và chịu chấp nhận mình.

Những người hay định kiến phải tăng cường hiểu biết xã hội để mở rộng tầm nhìn, chủ động cảm thông, chia sẻ, thương yêu mọi người xung quanh và xây dựng tư tưởng tận dụng những khác biệt văn hóa để hỗ trợ cho sự phát triển và hòa hợp chung cho tổ chức. Các thành viên khác trong tổ chức/xã hội phải nỗ lực thúc đẩy sự hòa hợp, hóa giải những hiểu lầm, xung đột do khác biệt văn hóa để cùng xây dựng một tổ chức/một doanh nghiệp/một xã hội hòa hợp, bền vững cho tất cả mọi thành viên. 

3. Ảnh hưởng của Văn hóa trong Quản lý/Quản trị

Quản trị và quản lý đều là những hành vi thực hiện mục tiêu thông qua người khác. Mà muốn sử đụng được người khác thì phải hiểu về người khác, đặc điểm tính cách/văn hóa của họ, nhu cầu/mong muốn của họ mà thúc đẩy họ hành động hướng vào việc thực hiện mục tiêu chung. 

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố trong hoạt động quản lý phải cân nhắc tới văn hóa như sau:
- Tính chất của hoạt động ra quyết định (tập trung hay phân cấp)
- Tác động của thưởng cá nhân và thưởng nhóm
- Hình thức thủ tục chính thức hay phi chính thức
- Sự trung thành với tổ chức cao hay thấp
- Đặc điểm hợp tác và cạnh tranh
- Tầm nhìn ngắn hạn và dài hạn
- Quan điểm ổn định và đổi mới/Đúng và Sai/Tốt và xấu/An toàn và rủi ro/Quan trọng và không quan trọng/...

Trong quá trình vận hành thực tế, nhiều xung đột sẽ nảy sinh làm cản trở sự hợp tác và phân công công việc. Hành vi xây dựng những cơ chế, chính sách quản lý có cân nhắc tới yếu tố văn hóa sẽ giúp hạn chế cơ bản những xung đột này, góp phần làm ổn định và phát triển tổ chức một cách bền vững.

(TG Fashion tgfashion.vn - Hân hạnh tài trợ!)

Wednesday, February 27, 2019

Tâm lý xã hội

Tâm lý là các hiện tượng tinh thần được hình thành trong tâm thức cá nhân/cộng đồng/xã hội khi tiếp xúc với ngoại cảnh. Tâm lý xã hội là tâm lý chung của một đám đông và có sự khác biệt rất lớn so với tâm lý riêng biệt của mỗi cá nhân (mặc dù giữa hai loại tâm lý này luôn có sự tương tác và ảnh hưởng qua lại).

Từ những hoạt động giao tiếp, tương tác hàng ngày phục vụ nhu cầu xã hội, tâm thế, niềm tin, v.v... (quá trình xã hội hóa cá nhân) - Các thành viên trong xã hội đã cùng nhau hình thành nên những nhận thức, thái độ, tình cảm và hành vi mang nét đặc trưng chung cho tất cả mọi người.

Một số loại tâm lý xã hội gần gũi trong đời sống là Tâm lý học dân tộc - Hình thành từ quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong suốt chiều dài lịch sử chung của một cộng đồng người; Tâm lý học lãnh đạo/quản lý - Được hình thành từ hệ thống quản lý của mỗi tổ chức, đặc điểm nhân sự/hoạt động vận hành; Tâm lý học sản xuất kinh doanh được hình thành để phục vụ nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng bằng nghệ thuật thiết kế sản phẩm/marketing/bán hàng/v.v...từ đó thúc đẩy sản lượng sản phẩm/dịch vụ mà tổ chức cung ứng được cho thị trường; và nhiều loại tâm lý học xã hội của các nhóm/tổ chức/cộng đồng khác (y tế, giáo dục, tôn giáo,...).

Qua đây có thể thấy, tâm lý xã hội có rất nhiều ứng dụng trong đời sống con người - Là một lĩnh vực quan trọng cần phải biết để hòa nhập thuận lợi vào xã hội.

1. Các hiện tượng tâm lý xã hội 

Trong quá trình tiếp xúc với ngoại cảnh, mỗi cá nhân/kiểu người trong xã hội bằng mục đích, kinh nghiệm, nhu cầu, nguyện vọng, hoàn cảnh, bối cảnh riêng biệt của mình để hình thành nên những nhận biết về xã hội trong tâm thức của mình (các tri giác xã hội). Với các đối tượng đã quen, tri giác xã hội (*) phụ thuộc nhiều vào thông tin được tiếp nhận sau cùng, còn với các đối tượng lạ, ấn tượng ban đầu là yếu tố quyết định. Như khi lần đầu tiếp xúc với một con người, chúng ta (với những kinh nghiệm, bối cảnh, động cơ riêng của mình) sẽ vô thức hình thành ngay những tri giác ban đầu về người đó thông qua diện mạo, lời nói, cử chỉ/tác phong, ánh mắt, nụ cười, v.v..


Quá trình sử dụng những giá trị ổn định trong kinh nghiệm của bản thân để suy diễn, giải thích, nhận định về một đối tượng gọi là Quy gán xã hội (*). Do thế giới bên ngoài thì rộng lớn, kinh nghiệm riêng có của cá nhân thì quá sức nhỏ bé nên về nguyên tắc, sự mọi sự quy gán đều mang tính "Ngây thơ" - Không đúng với sự thật. Công cụ quy gán thường là phương pháp suy diễn tương ứng hoặc nhân quả. 

Định kiến xã hội (*) là những ý kiến riêng - đã sẵn có và khó thay đổi (trong lời nói/hành vi/nhận thức) của mỗi cá nhân/chủng tộc/giới tính/tôn giáo/giai cấp/...về một đối tượng xã hội. Một định kiến xã hội được hình thành từ nhiều yếu tố khác biệt sâu sắc trong cạnh tranh lợi ích (tiện nghi, cơ hội, giá trị được thừa nhận,...); bất bình đẳng xã hội, quá trình xã hội hóa, khác biệt khuôn mẫu trong nhận thức, sai biệt trong biểu tượng xã hội, điều kiện giáo dục hoặc cấu trúc hình thành hệ thần kinh,...

Những định kiến cực đoan - khắc sâu mâu thuẫn và sự khác biệt rất dễ hình thành các hành vi phân biệt đối xử giữa những nhóm người khác nhau trong xã hội. Vì vậy, ta cần cố gắng hết sức để thay đổi những định kiến xấu mang tính cực đoan bằng mọi phương pháp như ngăn chặn ngay từ đầu quá trình hình thành định kiến, kiên nhẫn thực hiện các tiến trình trị liệu tâm lý cho các cá nhân/nhóm có tư tưởng cực đoan để họ dần tự nguyện thay đổi quan điểm và từ bỏ việc thực hiện những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Bắt buộc hay cưỡng chế chỉ là hình thức cuối cùng buộc phải áp dụng khi những sự tiếp xúc - chia sẻ để mọi người cùng tương trợ/nâng đỡ lẫn nhau, thống nhất chính thức về các mục tiêu chung không đạt được kết quả.

Ảnh hưởng xã hội (*) là hiện tượng một cá nhân/nhóm xã hội có khả năng làm thay đổi hành vi của những cá nhân khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự thuận lợi/lười biếng xã hội là yếu tố quyết định ảnh hưởng đó được lan tỏa mạnh hay yếu. Cơ chế tâm lý khi tiếp nhận một ảnh hưởng xã hội có thể là bắt chước, lây lan, ám thị, thỏa hiệp, đồng nhất hóa hay a dua.

Liên hệ xã hội (*) thể hiện khả năng chung sống với cộng đồng của mỗi cá nhân để tạo thành xã hội (biểu hiện cho sự tham dự vào xã hội của mỗi cá nhân). Cơ sở hình thành nên các liên hệ xã hội là những gắn bó suốt từ thời thơ ấu, các yếu tố xã hội hóa về nhu cầu/điều kiện gia nhập, cách thức kiểm soát, tâm lý/tình cảm, v.v...Trong một liên hệ xã hội tốt, các cá nhân có sự gần gũi, gắn bó, tương đồng về nhiều mặt và hòa hợp, nâng đỡ lẫn nhau, khác với sự hời hợt, rời rạc, mờ nhạt của một mối liên hệ không có chất lượng hoặc giữa những người không có sự liên hệ với nhau.
Thái độ xã hội (*) là một trạng thái đồng nhất về nhận thức, tình cảm, ý chí của một nhóm người. Từ tâm thế đó, các nhóm và thành viên nhóm tự xác định cho mình một vị trí riêng biệt trong xã hội để thỏa mãn những nhu cầu sống, yêu cầu tiếp nhận thông tin, giao tiếp và kiểm soát hành vi lẫn nhau trong nhóm - Cũng như xác lập thái độ để đánh giá hành vi của những cá nhân khác/những nhóm xã hội khác. 

Tin đồn hay Dư luận xã hội là một yếu tố đáng sợ/đáng quý trong một xã hội tùy thuộc vào khả năng sử dụng tin đồn của mỗi cá nhân/tổ chức. Bản chất của tin đồn là sự phán đoán, đánh giá có kèm theo yếu tố cảm xúc của cá nhân này/nhóm xã hội này trước những sự kiện hoặc hiện tượng của các cá nhân khác/các nhóm khác. Đặc điểm tâm lý xã hội/mức độ chuẩn bị/trạng thái cảm xúc của đám  đông và số lượng cùng chất lượng thông tin truyền đạt sẽ quyết định tới sự lớn mạnh hay yếu ớt của một dư luận. Với xã hội phương Đông, nơi quan điểm của cộng đồng có khả năng tác động lớn tới hành vi của một cá nhân thì tin đồn/dư luận xã hội có chức năng đánh giá, giám sát, giáo dục, tư vấn, phân biệt và giải tỏa tâm lý rất hiệu quả. 

2. Tâm lý nhóm nhỏ

Xã hội là một tập hợp lớn các cá nhân, trong khi mỗi cá nhân phần lớn chỉ có khả năng đáp ứng (tham gia/tương tác thường xuyên) trong những phạm vi nhỏ/số lượng thành viên hạn chế (thường tối đa khoảng 30 - 40 người). Vì vậy, xã hội nào cũng do nhiều nhóm nhỏ cấu thành. Những lý thuyết về tâm lý nhóm nhỏ là những hiểu biết thiết thực cho mỗi chúng ta trong cuộc sống thường ngày. 


Từ những đặc điểm tâm lý cá nhân (nhận thức/hiểu biết, hệ nhu cầu/động cơ cá nhân, các quy tắc chuẩn mực và năng lực hành động.) mỗi người luôn có xu hướng tìm kiếm một vị trí trong xã hội/một nhóm nhỏ có những điểm tương đồng về nhận thức/tri thức, ý nghĩ/lời nói/hành vi ứng xử, tình cảm/cảm xúc/trang phục/phong cách/thái độ của mình để gia nhập. 

Trong xã hội tồn tại rất nhiều loại nhóm nhỏ khác nhau. Nhóm chính thức thì có kỷ luật/nội quy chặt chẽ, còn nhóm không chính thức thì tự phát, chủ yếu dựa vào tình cảm, không có sự phân vai/vị trí rõ ràng. Nhóm bắt buộc không phụ thuộc vào nguyện vọng cá nhân/gia đình/chủng tộc/...., nhóm tự do thì gia nhập tùy theo nguyện vọng cá nhân. Nhóm mở thì cho phép gia nhập dễ dàng, mục đích hoạt động trong sáng - Nhóm đóng thì đặt điều kiện ra nhập cụ thể và thường có mục đích hoạt động không đơn giản. Nhóm thành viên thì có biên chế chính thức trong khi nhóm hội viên thì không có cơ chế này, v.v...Để nghiên cứu về nhóm, ta phải tiến hành quan sát đầy đủ các đặc điểm về động thái, chuẩn mực, áp lực, cấu trúc, hoạt động truyền thông trong nhóm và đặc điểm lãnh đạo (quá trình ra quyết định) của nhóm.  


Khi một nhóm phát triển lên tới đỉnh cao (các cá nhân trong nhóm như hòa làm một khối thống nhất) thì khái niệm Tập thể được hình thành. Trong một tập thể, các thành viên có mối liên kết bền vững với nhau trong một cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh cả bên ngoài và bên trong - Có cơ quan/bộ phận quản lý riêng - Cùng hướng tới những mục tiêu/nhiệm vụ hoạt động phù hợp với giá trị và lợi ích chung của xã hội. 

Với đặc trưng là sự thích nghi lẫn nhau, tình đoàn kết, thiện chí giải quyết va chạm/xung đột, tâm lý bắt chước/lây lan, ảnh hưởng cảm xúc/tâm lý/tâm trạng/quan niệm lẫn nhau giữa các thành viên - Các tập thể và các nhóm nhỏ là động lực nâng cao năng suất lao động, giáo dục phẩm chất và phân công lao động hợp lý cho toàn xã hội. 

(TG Fashion tgfashion.vn - Hân hạnh tài trợ!)

Xã hội học

Xã hội là khái niệm dùng riêng cho thế giới loài người (loài vật dùng khái niệm bầy/đàn). Xã hội/nhóm xã hội được hình thành từ một tập hợp người có mối quan hệ hữu cơ với nhau về không gian sinh sống và các điều kiện vật chất/tinh thần để tồn tại - Ở đó, mọi người cộng tác, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển. Xét về quy mô, các nhóm nhỏ (số lượng thành viên ít như nhóm bạn thân, nhóm học chung, nhóm bạn cùng sở thích,...) được duy trì bởi các tiếp xúc và quan hệ cá nhân, còn các nhóm lớn (đất nước, làng, xã,...) thì phải có một hệ thống giá trị/quan niệm chung để quản lý/điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong nhóm cho phù hợp thì mới đảm bảo được sự tồn tại


Xã hội học là bộ môn khoa học xã hội nghiên cứu về xã hội và các vấn đề phát sinh trong xã hội do sự tương tác của các thành viên - Từ đó, xây dựng nền tảng và phương hướng phát huy thế mạnh chung của xã hội cũng như loại bỏ những khác biệt/mâu thuẫn/nguy cơ gây chia rẽ để mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.

Sinh viên Nông học (cũng như các sinh viên chuyên ngành kỹ thuật khác) đều có mối quan hệ cả trực tiếp và gián tiếp với những kiến thức của các bộ môn xã hội nói chung và xã hội học nói riêng - Do mỗi chúng ta trước hết đều là những con người xã hội - có không gian sống/học tập/rèn luyện/tạo dựng sự nghiệp nằm trọn vẹn trong phạm vi của các cộng đồng người/các nhóm xã hội. Vì vậy, chúng ta rất cần những hiểu biết căn bản về Xã hội học. 
1. Các khái niệm cơ bản

Xã hội được cấu thành từ các nhóm, giai cấp/tầng lớp và cộng đồng. Trong đó bao gồm các phân hệ cơ bản là nhân khẩu, nghề nghiệp, lãnh thổ, dân tộc và giai cấp xã hội. Mỗi cá nhân trong xã hội đều có một vị trí/vị thế nhất định - về tự nhiên (già/trẻ, nam/nữ, màu da,...) và xã hội (cấp bậc, chức vụ, nghề nghiệp,...). Khác với vị thế tự nhiên (hiển nhiên mà có), các vị thế xã hội đòi hỏi người mong muốn nắm giữ phải đảm nhiệm được các vai trò tương ứng với xã hội (về chuẩn mực hành vi/nghĩa vụ) trước khi được thụ hưởng các quyền lợi từ vị thế đó.  

Những người có cùng một điều kiện về tài sản/thu nhập, trình độ học vấn/văn hóa, địa vị/vai trò/uy tín xã hội thì lập thành một tầng lớp xã hội riêng. Sự phân tầng xã hội có thể xem xét dưới nhiều góc độ như có chung địa vị kinh tế/chính trị/xã hội; có chung nghề nghiệp, học vấn, kiểu nhà ở, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt/ứng xử hay thị hiếu nghệ thuật, v.v...Các cá nhân có chung điều kiện tồn tại (quan điểm sống, tín ngưỡng, giá trị, lợi ích, truyền thống, lịch sử, phong tục tập quán) thì lập thành một cộng đồng. 


Thông qua nhu cầu và kế hoạch sống đặc trưng, các chủ thể xã hội (cá nhân, dân tộc, giai cấp, tầng lớp,...) hình thành nên các lối sống khác biệt về mức sống và chất lượng sống. Tuy nhiên, lối sống nào cũng phải hài hòa với hệ giá trị chung được tất cả các thành viên trong xã hội coi là tốt đẹp và tự nguyện/bắt buộc tuân thủ. Những giá trị đó hình thành nên những hệ thống tương tác biểu trưng, những chuẩn mực được thừa nhận - Làm quy tắc sống, ứng xử và nhắc nhớ các cá nhân phải dựa vào đó mà suy nghĩ, phán đoán, ứng xử cho phù hợp, góp phần gìn giữ những giá trị tốt đẹp và sự bền vững của xã hội. Nếu một xã hội không có hệ thống chuẩn mực đúng đắn để đi theo hoặc hệ giá trị xã hội đúng đắn bị làm cho lệch lạc thì sự bất ổn, xung đột, suy thoái, đổ vỡ sẽ xảy ra. 

Xã hội hóa là một quá trình biến đổi một cá nhân mới trở thành một thành viên của xã hội. Trong quá trình đó, sự tiếp diễn văn hóa sẽ diễn ra qua các hoạt động giao tiếp, học hỏi, cùng chung sống,...để mỗi người từng bước hiểu và hòa nhập vào xã hội mới, thích ứng, tương tác, tuân thủ các giá trị chung. Dần học hỏi, hoàn thiện mình để có những đóng góp tích cực cho xã hội. Tất cả các yếu tố từ gia đình, nhà trường, các phương tiện thông tin đại chúng, giai cấp, chủng tộc, dân tộc, văn hóa, công nghệ, các nhóm bạn cùng tuổi tác/địa vị/nghề nghiệp/nơi làm việc, v.v...đều có ảnh hưởng tới quá trình xã hội hóa của một cá nhân. 

2. Xã hội

Một xã hội được cấu thành từ nhiều thiết chế xã hội

Thiết chế xã hội là cấu trúc có chức năng quản lý và kiểm soát xã hội thông qua các công cụ thưởng/phạt thích hợp với mỗi hành vi của cá nhân thành viên. Các thiết chế quen thuộc trong một xã hội là thiết chế chính trị/ pháp luật/ kinh tế/ gia đình/ giáo dục/ văn hóa,...Xu hướng của các thiết chế là bảo thủ và rất kém nhạy cảm do chức năng của thiết chế là giữ gìn sự bền vững, ổn định lâu dài cho hoạt động vận hành xã hội.
 

Đặc trưng của xã hội được hình thành từ đặc trưng của các thiết chế cấu thành. Như đặc trưng của xã hội phương Tây là chủ nghĩa cá nhân, tinh thần trọng động - Đặc trưng của xã hội phương Đông là tính cộng đồng, tinh thần trọng tĩnh - Nguyên nhân có thể tìm thấy từ các thiết chế cấu thành nên mỗi xã hội. Như trong thiết chế gia đình - phương Tây tổ chức gia đình ở mức quy mô nhỏ (số lượng thành viên ít - hai thế hệ cùng chung sống), lỏng lẻo/rời rạc, không gắn bó, không có thứ bậc (do thành viên trong gia đình tôn thờ cái tôi và nếp sống/sở thích cá nhân của riêng mình), trong khi gia đình phương Đông lại có quy mô lớn (nhiều thế hệ cùng chung sống - tam/tứ/... đại đồng đường), chặt chẽ/ bền vững/ gắn bó (do các thành viên có xu hướng hy sinh cái tôi/sở thích cá nhân/...để nhường nhịn lẫn nhau vì coi trọng sự hòa hợp).

Giáo dục phương Tây trọng động, khuyến khích các hoạt động về cơ bắp, thể lực mạnh mẽ, dồn dập, thậm chí đến cả các hình thức vận động trí não (các trò chơi chiến lược, chiến thuật, phối hợp trên máy tính) cũng phải làm cho cho hệ thần kinh phải vận động căng thẳng, liên tục không ngừng thì mới gọi là tốt!  - Trong khi giáo dục phương Đông trọng tĩnh lại coi trọng các phương pháp luyện tập giúp đạt được trạng thái an tĩnh nội tâm để phát huy năng lực trí não và khả năng kiểm soát cảm xúc cá nhân.
Và mặc dù chứa đựng khuynh hướng bảo thủ nặng nề, các thiết chế vẫn bị biến đổi dần qua thời gian  đúng theo theo quy luật vô thường để tự hoàn thiện mình - Ngày nay, các quá trình giao lưu, học hỏi, trao đổi tri thức/tư tưởng giữa các nền văn hóa khác nhau được sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ/kỹ thuật, đã thúc đẩy sự biến đổi ấy diễn ra theo một tốc độ nhanh chưa từng thấy.

Dễ nhận ra nhất là sự biến đổi trong các thiết chế gia đình và giáo dục giữa hai nửa Đông - Tây địa cầu. Trong khi thiết chế gia đình phương Đông đang có xu hướng ngày càng nhỏ lại - ngày càng tan rã nhanh hơn (ly hôn, đổ vỡ) do ảnh hưởng từ tư tưởng tự do, phóng khoáng, nếp sống hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân của xã hội phương Tây - Một bộ phận cha mẹ phương Đông có tư tưởng ưa thích đưa con vào các trường quốc tế để được tiếp nhận nền giáo dục phương Tây - Thì ở các xã hội phương Tây lại đang bắt đầu xuất hiện các bộ phim ca ngợi tình cảm gia đình (anh em hy sinh cho nhau, cha mẹ hy sinh cho con cái) theo tinh thần phương Đông. Nước Mỹ và nhiều nước Tây Âu lại đổ xô đưa thiền học Phật giáo vào áp dụng trong nhiều trường học, đại học, công sở, công ty, bệnh viện, trại giam, các tổ chức xã hội, v.v... - Nổi bật trong số đó là sự kiện tập đoàn Google mời một thiền sư người Việt Nam (Hòa thượng Thích Nhất Hạnh) đến  giảng dạy về thiền cho lãnh đạo và nhân viên của hãng ngay tại trụ sở chính - Rất tự vào nhưng nhiều trăn trở. Mải chạy theo tư tưởng và lối sống phương Tây - Xã hội phương Đông mà trong đó có Việt Nam ta liệu có đang chọn đúng con đường?

3. Văn Minh - Văn hóa - Sự xung đột

Văn minh thiên về trình độ phát triển đạt tới đỉnh cao của cộng đồng về mặt vật chất (các kỹ thuật, máy móc, công nghệ sản xuất, v.v...) - Những thành tựu tiến bộ khoa học, kỹ thuật này được thừa nhận rộng rãi (tùy ý/không giới hạn phạm vi địa lý) hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng lan tỏa, sức thuyết phục và tính hiệu quả về giá trị vật chất mà nó mang lại. 


Văn hóa thiên về các giá trị xã hội (quan điểm sống, cách thức vận hành/tổ chức cuộc sống) -  các giá trị tinh thần sâu xa được hình thành trong các cộng đồng người qua quá trình tương tác lâu dài - Tính chất đặc trưng là đa dạng (trái với tính phổ quát của văn minh). 

Văn hóa bao gồm nhiều khía cạnh như ngôn ngữ, lý tưởng, giá trị hiện thực, giá trị trung tâm/cục bộ, các quy tắc, chuẩn mực nhân văn (điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá nhân) hay pháp lý (điều tiết mối quan hệ của các nhóm người/quốc gia/dân tộc); các giá trị biểu tượng (vật tượng trưng nghĩa đen/nghĩa bóng, trực quan/cảm tính) để khởi đầu các tư duy lý tính,...

Văn hóa được chia làm nhiều loại  như văn hóa phi vật thể (các ý tưởng, ngôn ngữ, giá trị, niềm tin, hành vi, thiết chế xã hội), văn hóa vật thể, văn hóa cao cấp/đại chúng. Văn hóa rất đa dạng và phần lớn có sự khác biệt rất sâu sắc giữa các cộng đồng người/nhóm xã hội khác nhau. Mà đặc điểm tâm lý của con người là luôn có xu hướng bài trừ những gì không giống/không hợp với mình - Do đó, khi di chuyển từ cộng đồng này sang cộng đồng khác, các cá nhân luôn phải đối mặt với nguy cơ "Sốc văn hóa" rất lớn. 
Khi sự khác biệt về văn hóa/lối sống/tư tưởng đưa tới sự bất đồng về lợi ích/giá trị/nhu cầu/quyền lực bị đẩy lên đỉnh điểm, các xung đột xã hội sẽ bắt đầu bùng vỡ dưới nhiều hình thức như xung đột giữa các cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, giữa các nhóm xã hội/các sắc tộc/các quốc gia hay trong nội bộ tổ chức, v.v... Và dù tích cực hay tiêu cực, chủ động hay bị động, trực tiếp hay gián tiếp, các xung đột đều gây ra nguy cơ xáo trộn, bất ổn, thậm chí đổ vỡ cho xã hội. Do đó, mỗi cá nhân trong xã hội đều cần có thái độ bình tĩnh, ôn hòa cùng tinh thần sẵn sàng chia sẻ và thấu hiểu để tránh những tổn hại chung cho bản thân và toàn xã hội. 

(TG Fashion tgfashion.vn - Hân hạnh tài trợ!)

Tuesday, February 26, 2019

Kinh tế vĩ mô

Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô là hai phân ngành của kinh tế học. Kinh tế vi mô nghiên cứu các hành vi kinh tế của hộ gia đình, một công ty/xí nghiệp, một ngành sản xuất hoặc một thị trường xác định - Có mục tiêu tối đa hóa lợi ích đối với người tiêu dùng và tối đa hóa lợi nhuận đối với người sản xuất. Còn kinh tế vĩ mô thì nghiên cứu hoạt động của toàn bộ nền kinh tế với mục tiêu phát triển hiệu quả nhưng bền vững cho toàn xã hội dựa trên nền tảng kinh tế tăng trưởng ổn định.
1. Các vấn đề Kinh tế Vĩ mô

Bốn vấn đề cơ bản của Kinh tế vĩ mô là Lạm phát - Giảm phát; Thất nghiệp; Chu kỳ kinh tế (xen kẽ giữa các - đỉnh và đáy - tăng trưởng và suy thoái - bùng nổ và khủng hoảng - Sự bất toàn của nền kinh tế tự do) và Sự thâm hụt ngân sách chính phủ/cán cân thương mại. 

Lạm phát là hiện tượng xảy ra khi giá cả của các sản phẩm và dịch vụ tăng lên đồng loạt, liên tục - Được đo lường thông qua chỉ số giá tiêu dùng. Lạm phát quá cao gây ra nhiều tác động tiêu cực cho nền kinh tế, nhưng lạm phát ở mức thích hợp - trong tầm kiểm soát là dấu hiệu của một nền kinh tế đang tăng trưởng. Trong chu kỳ kinh tế, khi tổng cầu tăng thì lạm phát tăng - sản xuất được phát triển nên làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Ngược lại, khi tổng cầu giảm, tuy làm giảm lạm phát nhưng hoạt động sản xuất cũng bị đình trệ và làm gia tăng số người thất nghiệp do thiếu việc làm.

Người thất nghiệp được định nghĩa là những người từ đủ 15 tuổi trở lên - Hiện không có việc làm và đang mong muốn có một việc làm - Đã và đang tích cực tìm kiếm việc làm cũng như đang ở trong tình trạng sẵn sàng làm việc. Nếu không hội đủ những điều kiện trên thì không được xét là người thất nghiệp. Trong một nền kinh tế luôn tồn tại một mức thất nghiệp tự nhiên, mục tiêu của các chính phủ là làm sao cho mức thất nghiệp không vượt quá sự kiểm soát để tránh gây ra những tác động tiêu cực cho xã hội như tổn thất sản lượng và thu nhập; xói mòn nguồn vốn con người, gia tăng tội phạm và tệ nạn xã hội cũng như tổn thất về nhân phẩm - Sự tự tin, tự trọng của các cá nhân quá lâu không tìm được việc làm phù hợp. 


Trong một mô hình kinh tế, thu nhập và chi tiêu được luân chuyển trong các khu vực hộ gia đình (Thu chi các yếu tố đầu vào, mua sản phẩm/dịch vụ tiêu dùng, tiết kiệm sau tiêu dùng); khu vực sản xuất (Chi mua yếu tố  đầu vào, doanh thu bán hàng, vốn đầu tư); khu vực công; khu vực nước ngoài, các luồng bơm vào và các luồng rò rỉ.

GDP (Tổng sản phẩm nội địa) hay GNP (Tổng sản phẩm quốc dân) là các thước đo quen thuộc trong kinh tế vĩ mô - Có thể được tính dựa theo chi tiêu (chi tiêu công, tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng); theo thu nhập (Lương, lãi, thuế, lợi nhuận, các khoản gián thu và trợ cấp) hoặc theo giá trị gia tăng (sản phẩm cuối cùng, sản phẩm trung gian) tuy nhiên kết quả luôn không đạt đến độ chính xác tuyệt đối do tồn tại các khoản giá trị không tính toán được như các hoạt động phạm pháp (buôn lậu, buôn bán hàng cấm,...), các hoạt động không đăng ký - không khai báo; các hoạt động phi thương mại (nội trợ, từ thiện, tình nguyện,...).



Khối lượng sản phẩm/dịch vụ lưu thông trong nền kinh tế chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tiền tệ - tích sản tài chính, các sản phẩm và dịch vụ trong tương lai cũng như sản xuất ở nước ngoài. Nếu kinh tế vi mô nghiên cứu về Cung/Cầu thì kinh tế vĩ mô nghiên cứu về Tổng cung - Tổng cầu. 

Các yếu tố ảnh hưởng tới tổng cầu là lãi suất, lạm phát được dự đoán, lợi nhuận dự đoán, tỷ giá hối, đoái, khối lượng tiền tệ, sự giàu có của người dân, nhu cầu sản phẩm/dịch vụ của khu vực công, dân số, thu nhập ngoại quốc, thuế và chi chuyển nhượng. Các yếu tố ảnh hưởng tới tổng cung là nguồn nhân lực, cơ sở vật chất - kỹ thuật, vốn con người, nguồn nguyên liệu, thời tiết - khí hậu - đặc điểm tự nhiên, công nghệ, những thay đổi trong thành phần GDP thực và những yếu tố kích thích. Tổng cung ngắn hạn bị ảnh hưởng bởi lượng và giá của các yếu tố sản xuất, tổng cung dài hạn được đo lường theo các xu hướng và các hàm số sản xuất. 


Tổng chi tiêu có liên hệ mật thiết với tổng cầu và tổng cung. Tổng chi tiêu của nền kinh tế được hình thành từ các yếu tố tiêu dùng cá nhân (thu nhập khả dụng/dự đoán; khuynh hướng tiêu dùng/tiết kiệm), hoạt động đầu tư (ảnh hưởng bởi lãi suất, lạm phát/lợi nhuận dự đoán, khấu hao tài sản) và xuất khẩu ròng (ảnh hưởng bởi GDP, mức độ chuyên môn hóa của nền sản xuất toàn cầu, giá tương đối của hàng hóa trong nước so với nước ngoài và tỷ giá hối đoái)

2. Các vấn đề Tài chính - Tiền tệ

Tiền tệ là một phương tiện đóng nhiều vai trò quan trọng trong thực tế sản xuất và đời sống như làm vật trung gian trao đổi, là phương tiện thanh toán, đơn vị hạch toán, công cụ dự trữ giá trị,...với các hình thái đa dạng từ các loại hàng hóa, giấy có thể chuyển đổi, cho tới các loại tiền được đảm bảo bằng sắc lệnh hay ghi nợ. 

Khối tiền tệ cơ bản bao gồm ba thành phần (M1, M2 và M3). Trong đó, M1 gồm các loại tiền mặt lưu thông ngoài ngân hàng (Tiền giấy hay kim loại), tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tài khoản sec (ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, tổ chức trung gian tài chính). M2 gồm M1 và các khoản ký gửi ở ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính. M3 gồm M2 và các khoản ký gửi định kỳ. Khối tiền tệ Quốc gia được kiểm soát thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và các nghiệp vụ thị trường mở (mua bán tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá trị ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ).


Tiền tệ được cất trữ bởi các động cơ chủ yếu là giao dịch, đầu cơ và dự phòng. Các công cụ truyền dẫn tiền tệ trong nền kinh tế là lãi suất, tác động cán cân thực/của cải/tỷ giá hối đoái. Các chính sách tiền tệ nhằm điều tiết nền kinh tế của Chính phủ luôn có độ trễ thời gian trong chi tiêu và sự điều chỉnh giá cả các loại hàng hóa.

Trong các giao dịch quốc tế, ta cần quan tâm tới tỷ giá hối đoái và các chế độ tỷ giá hối đoái (cố định, thả nổi hoặc có quản lý) do mỗi quốc gia đều có một loại nội tệ khác nhau. Việc giao dịch mua bán ở cấp độ quốc gia giữa các nước trên thế giới đã hình thành nên khái niệm về Cán cân thanh toán. Các tài khoản được tính đến trong cán cân thanh toán là Tài khoản vãng lai (xuất khẩu ròng, trả lãi ròng, các khoản chuyển nhượng ròng khác); Tài khoản vốn (các giao dịch vay mượn quốc tế) và Tài khoản bù trừ.

Trạm trung chuyển tiền tệ quen thuộc trong tất cả các nền kinh tế là các ngân hàng. Các ngân hàng thương mại có nguồn tiền được cơ cấu theo hai bộ phận - Cho vay và Dự trữ (thực tế, bắt buộc). Ngân hàng Trung ương có chức năng quản lý các ngân hàng thương mại/ các tổ chức tín dụng/ thị trường tiền tệ và thực thi các chính sách tiền tệ quốc gia (Kiểm soát lạm phát, điều hòa chu kỳ kinh tế). 

Bằng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỉ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở cùng các công cụ khác do thống đốc quyết định, ngân hàng Nhà nước chủ trì xây dựng các chính sách tiền tệ quốc gia, các kế hoạch bổ sung cho lưu thông tiền tệ hàng năm trình lên Chính phủ; điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ, đưa tiền vào lưu thông, rút tiền ra khỏi dòng lưu thông theo tín hiệu được phê duyệt và báo cáo lên Chính phủ cùng Quốc hội các kết quả thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia. 

3. Lao động xã hội

Lao động (Nhân lực) là yếu tố đầu vào duy nhất có khả năng tạo ra giá trị thặng dư thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Năng suất lao động, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn tích lũy và các tiến bộ kỹ thuật công nghệ quyết định sự tăng trưởng kinh tế (sự khuếch trương năng lực sản xuất của nền kinh tế) - Quá trình tích lũy vốn và cải tiến/đổi mới kỹ thuật làm gia tăng năng suất lao động, kéo theo sức sản xuất tăng lên, tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, các tác động của thiên tai, chiến tranh, rào cản thương mại, v.v...sẽ làm giảm sút năng lực sản xuất. 


Lao động là yếu tố sản xuất không thể phân chia và được trả "chi phí" bằng các suất tiền lương (danh nghĩa/thực tế). Các đối tượng không thuộc lực lượng lao động là sinh viên, học sinh, người nội trợ, người không đủ sức khỏe và các đối tượng thuộc lực lượng lao động bao gồm những người thất nghiệp tạm thời/bị sa thải/ tự xin nghỉ để tìm việc khác tốt hơn và những người đang có việc làm.

4. Tăng trưởng Kinh tế 

Những trở ngại đối với tăng trưởng kinh tế quốc gia là sự bùng nổ dân số (thường xảy ra ở các nước nghèo, các nước chậm phát triển), mức tiết kiệm thấp (vốn nhỏ thì nguồn lực cho phát triển kinh tế sẽ yếu ớt), các khoản nợ nước ngoài và vòng luẩn  quẩn của tình trạng kém phát triển. Việc kiểm soát dân số, sử dụng hiệu quả nguồn viện trợ nước ngoài, cởi bỏ bớt rào cản mậu dịch để thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tổng cầu tương ứng với tổng cung dài hạn là các giải pháp được đưa ra nhằm vượt qua chướng ngại, dọn đường cho tăng trưởng kinh tế.

Hiện nay, các nước châu Phi được phân loại vào nhóm các nước chưa/chậm phát triển. Các nước châu Á, Trung Đông, Trung - Nam Mỹ là các nước đang phát triển. Các nước Hàn Quốc, Israel, Đài Loan là các nước công nghiệp mới. Các nước Tây Âu, Mỹ, Canada, Nhật, Úc, New Zealand là các nước công nghiệp lâu đời, ngoài ra còn có các nước dầu mỏ giàu có và các nước chuyển đổi từ mô hình kinh tế tập trung sang mô hình kinh tế thị trường. 

5. Ổn định hóa Kinh tế.

Sự ổn định luôn là yếu tố quyết định sống còn tới sự phát triển bền vững của một nền kinh tế. Mang bản chất cạnh tranh về vật chất, nền kinh tế luôn chứa đựng các mâu thuẫn quyết liệt giữa các chủ thể tham gia, do đó luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn. Nếu không có một trọng tài đứng ra phân xử và điều tiết các các mối quan hệ gay gắt đó - Giữ lấy một sự ổn định tương đối thì nền kinh tế sẽ nhanh chóng đi vào khủng hoảng. Và trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, vai trò trọng tài này thuộc về Chính phủ và Ngân hàng Trung ương.


Bằng các chính sách tiền tệ/ thuế/ chi tiêu, dự kiến thâm hụt/thặng dư ngân sách - Ngân hàng Trung ương phối hợp với Chính phủ  thực hiện các mục tiêu kiểm soát thất nghiệp, kiểm soát lạm phát (giữ lạm phát ở mức thấp và có thể dự đoán), thúc đẩy tăng trưởng GDP thực, giữ ổn định tỷ giá hối đoái và điều chỉnh cán cân thương mại quốc tế theo chiều hướng có lợi để toàn bộ nền kinh tế luôn được giữ trong tình trạng ổn định và phát triển thuận lợi. 

Các cơ sở để đánh giá hiệu quả điều hành nền kinh tế Quốc gia của một Chính phủ bao gồm: Tỉ lệ tăng trưởng GDP/GNP; tỉ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất, chỉ số sản xuất công nghiệp (thu hút vốn đầu tư), mức thặng dư/thâm hụt cán cân thương mại chỉ số việc làm - Với các căn cứ này, trong những năm gần đây - Ngay cả khi phải trải qua giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu, chính phủ Việt Nam vẫn luôn nhận được sự đánh giá cao của giới học giả và chính phủ các nước trên thế giới.

(TG Fashion - www.tgfashionstyle.com - Hân hạnh tài trợ!)






Monday, February 25, 2019

Kinh tế vi mô

Kinh tế vi mô chuyên nghiên cứu về hành vi riêng biệt cũng như sự tương tác giữa các chủ thể tham gia vào nền kinh tế (người tiêu dùng, doanh nghiệp) - Với mục đích phân tích, giải thích các hiện tượng trên thị trường nhằm có phương án phản ứng và lựa chọn tiêu dùng, sản xuất - kinh doanh cho phù hợp, có hiệu quả.
Cũng như đã trình bày trong phần Kinh tế học, các vấn đề cơ bản của một doanh nghiệp vẫn là lựa chọn Sản xuất cái gì? (Nội dung, thiết kế sản phẩm, số lượng, chất lượng, thời điểm tiến hành sản xuất), Sản xuất như thế nào? (Ai sản xuất, chọn tài nguyên nào/công nghệ nào và dùng phương pháp nào để sản xuất?) và Sản xuất cho ai? (Người mua/người trực tiếp sử dụng/người thụ hưởng). 

Mục tiêu của sự lựa chọn là thu được lợi ích tối đa từ những nguồn lực hữu hạn của doanh nghiệp mình. Trong quá trình lựa chọn, ta phải cân nhắc các tác động của quy luật khan hiếm (nguồn lực có hạn - nhu cầu vô hạn), lợi suất giảm dần và chi phí cơ hội ngày càng tăng. Lý thuyết gợi ý cho sự lựa chọn là chi phí cơ hội và tính khả thi - Những sự lựa chọn này chịu sự chi phối mạnh mẽ của mô hình kinh tế mà doanh nghiệp đang hoạt động (Kế hoạch hóa tập trung/ thị trường/ hỗn hợp). 
Căn cứ theo nhu cầu của thị trường và xã hội, doanh nghiệp phát hiện ra những nhu cầu còn chưa được thỏa mãn để phục vụ (nhằm thu lợi nhuận) thông qua việc sản xuất các loại hàng hóa/dịch vụ phù hợp với nhu cầu đó. Doanh nghiệp sản xuất nghiên cứu nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất cái gì, sau đó chuẩn bị các yếu tố đầu vào - phối hợp các nguồn lực để tiến hành sản xuất và tổ chức tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ để thu về lợi nhuận. Doanh nghiệp thương mại - dịch vụ thì nghiên cứu thị trường để quyết định các loại sản phẩm cùng với số lượng tương ứng cần mua (để bán lại cho người tiêu dùng). Sau đó, tổ chức mua về - bao gói - chế biến, bảo quản rồi bán ra để thu hồi vốn (chuẩn bị cho các chu kỳ kinh doanh tiếp theo) cùng lợi nhuận. Trong mối quan hệ  này, doanh nghiệp ở phía cung - người tiêu dùng ở phía cầu - Các vấn đề Cung - cầu và điểm cân bằng Cung - cầu là những điều cần liên tục quan sát, phân tích và "đi trước" để kinh doanh được thành công. 
Việc phân loại doanh nghiệp có thể tiến hành theo nhiều tiêu chí khác nhau như theo lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật; theo cấp quản lý, theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, quy mô sản xuất kinh doanh hoặc trình độ kỹ thuật - công nghệ. Các loại chi phí cần theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh là tổng chi phí, chi phí cố định, chi phí biến đổi, chi phí bình quân, chi phí cận biên (các loại chi phí ngắn hạn) và chi phí dài hạn như hiệu suất quy mô - Giảm tương đối các chi phí cố định, tăng tính chuyên môn hóa và tận dụng tối đa lợi thế của máy móc, thiết bị,...Hai loại lợi nhuận để đánh giá hiệu quả kinh tế là lợi nhuận bình quân lợi nhuận siêu ngạch - Bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như quy mô sản xuất hàng hóa/dịch vụ; giá cả/chất lượng đầu vào và giá bán ra cho khách hàng.
Trong cuộc đua kinh tế, các doanh nghiệp không những phải cạnh tranh trong thị trường hàng hóa - khi mang sản phẩm tới tay khách hàng mà còn phải chạy đua quyết liệt trong thị trường các yếu tố sản xuất, từ lao động, vốn tới đất đai,...Các vấn đề trong Cung lao động là áp lực tâm lý xã hội, áp lực kinh tế, phân bổ thời gian nghỉ ngơi - lao động, tiền công tối thiểu và các yếu tố cân bằng. Cầu lao động là số lao động mà doanh nghiệp mong muốn thuê và có khả năng thuê - tương ứng với mỗi mức tiền công tại một thời điểm xác định. Cầu lao động bị chi phối bởi cầu hàng hóa/dịch vụ và giá cả của lao động. Các loại vốn trong sản xuất kinh doanh là vốn hiện vật (tài sản cố định, tài sản dự trữ), vốn tài chính, các loại tài sản vô hình (thương hiệu, uy tín, mối quan hệ, v.v...). Đất đai là một loại tài sản đặc biệt với nguồn cung cố định trong dài hạn và lượng cầu luôn có xu hướng gia tăng. Do đó, các hoạt động sản xuất liên quan tới đất đai hay chỉ là cần mặt bằng để giao dịch đều phải cân nhắc tới vấn đề này. 

Và cũng như bất cứ cuộc chạy đua nào, cạnh tranh trong kinh doanh cũng luôn có người thắng, kẻ thua. Nếu một tổ chức kinh tế nào đó đạt được quy mô tối ưu, sở hữu các bằng phát minh sáng chế có giá trị kinh tế cao và độc quyền được nguồn nguyên vật liệu đầu vào thì sẽ dẫn tới hiện tượng Độc quyền bán - Tương ứng đó là hiện tượng Độc quyền mua với khả năng định giá bằng sức mạnh thị trường. Cuộc đua cạnh tranh cứ vậy tiếp diễn trong suốt chiều dài lịch sự và kết quả là ngày nay, ở những nước có nền kinh tế cạnh tranh gần như tự do hoàn toàn thì tỉ lệ phân phối tài sản bất bình đẳng 80/20 của Pareto đã tiến đến 99/1 - 99 % dân số nắm 1% tài sản và 1% dân số nắm 99% tài sản. 

Nếu cứ tiếp diễn sự sai biệt về phân phối vật chất như vậy thì sẽ làm đời sống của tuyệt đại đa số con người không thể tồn tại. Và nếu đại đa số này không tồn tại thì xã hội và cả nền kinh tế cũng tiêu vong - Bởi bất cứ xã hội nào, bất cứ nền kinh tế nào cũng đã và đang vận hành trên đôi chân và khối óc của những con người thuộc phần tuyệt đại đa số đó. Và Nhà nước đã ra đời với chức năng ngăn cản sự tiêu vong đó của xã hội. 
Trong khi nền kinh tế tự do phân bổ tài sản một cách bất bình đẳng theo khu vực, thu nhập, giới tính và chủng tộc, thì Nhà nước - với những chức năng, công cụ và quyền hạn theo pháp luật được số đông quần chúng công nhận sẽ cân bằng lại sự phân chia bất bình đẳng quá mức bằng trợ cấp, các khoản thừa kế và phúc lợi khác - Tạo điều kiện đảm bảo, nâng cao đời sống ít nhất là ở mức tối thiểu cho số đông - Đi ngược lại sự phân chia tài sản khắc nghiệt - lạnh lùng theo năng lực kinh tế của nền kinh tế tự do. Nhờ đó mà đảm bảo được sức sản xuất lâu dài cho xã hội, cho nền kinh tế. 
Mục tiêu của kinh tế vi mô là tối đa hóa lợi ích cục bộ, còn mục tiêu tối hậu của kinh tế vỹ mô - của Nhà nước là tối đa hóa lợi ích của toàn bộ xã hội - của toàn bộ nền kinh tế - Không những cần hiệu quả ở hiện tại mà quan trọng hơn là còn phải bền vững trong tương lai. Trong nội dung của Kinh tế vỹ mô, chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về nền kinh tế dưới góc nhìn bao quát, rộng lớn thay vì những tính toán chi ly, ngóc ngách của kinh tế vi mô. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn và các em trong bài viết tiếp theo :)

(TG Fashion - www.tgfashionstyle.com - Hân hạnh tài trợ!)

Kinh tế học


Giống như nền móng của một tòa nhà lớn, các kiến thức căn bản trong Kinh tế học là một trong những khái niệm mở đầu quan trọng để ta bước vào khai phá khối kiến thức kinh tế đồ sộ. Ngày nay, cả thế giới liên hệ gắn bó với nhau qua kinh tế, các đất nước ganh đua nhau bằng các chỉ số kinh tế, nhà nhà - người người đọ nhau - đánh giá nhau bằng "tiềm lực" kinh tế. 

Là sinh viên Nông học hay sinh viên của bất cứ chuyên ngành Kỹ thuật nào - Dù tự đứng ra kinh doanh theo ngành học của mình hay tìm kiếm một công việc làm thuê thì đều phải tham gia vào nền Kinh tế. Nên ít nhất ta cần nắm được các kiến thức kinh tế cơ bản - tổng quát để có thể định vị được bản thân và có đường hướng phát triển sự nghiệp một cách chủ động - Sáng suốt. 
1. Kinh tế học

Những nhu cầu, ước muốn của mỗi con người tập hợp thành những nhu cầu và ước muốn của toàn bộ xã hội. Trong mối tương quan vô cùng chênh lệch, giữa ước muốn và nguồn lực thực tế (nhu cầu của con người là vô hạn, nguồn lực của Địa cầu là hữu hạn), nên mỗi khi lựa chọn sản xuất một sản phẩm là ta đã tiêu tốn một phần trong số các nguồn lực hữu hạn đó - Đồng nghĩa với việc không còn cơ hội để sản xuất ra các sản phẩm khác (Chi phí cơ hội). Vậy lựa chọn Sản xuất cái gì? Bằng cách nào? Để cung cấp cho ai? thì mới "Có lời"? - Đây cũng chính là ba vấn đề căn bản của xã hội mà Kinh tế học phải tìm cách trả lời thỏa đáng để "Có lời" hoặc Có lời thật nhiều! (Hiệu quả kinh tế)
Căn cứ theo phương thức giải quyết ba vấn đề căn bản của xã hội (nêu trên), trong lịch sử Kinh tế học có ba kiểu hệ thống kinh tế là Kinh tế chỉ huy (Kế hoạch hóa tập trung dưới sự quyết định của nhà nước); Kinh tế thị trường tự do (Các lực lượng thị trường chi phối - Bàn tay vô hình) và Kinh tế hỗn hợp (Nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước)

Kinh tế học là một môn khoa học xã hội nghiên cứu các hành vi kinh tế, thông qua các phép phân tích thực chứng (Dùng số liệu thực tế) hoặc chuẩn tắc (Dùng ý kiến mang giá trị cá nhân), cùng công cụ là  các mô hình/lý thuyết kinh tế được xây dựng thông qua một chuỗi suy luận giả định trên nền tảng của việc đơn giản hóa các yếu tố trong thực tế.

Kinh tế Vỹ mô như bức tranh phác thảo của cả một khu rừng (quốc gia, thế giới) và kinh tế Vi mô như một bức hình mô tả chi tiết về một cái cây (cá nhân, doanh nghiệp) là hai cánh tay phải trái của Kinh tế học mà ta sẽ tìm hiểu trong các bài tiếp theo.

2. Thị trường 

Thị trường và nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa giữa người mua (Cầu) và người bán (Cung). 

Cầu được thể hiện ở hai yếu tố là Khối lượng mua (Mong muốn có) và Khả năng mua (Mức sẵn sàng chi trả) cho một loại hàng hóa - Tại một mức giá xác định - Trong một thời điểm xác định. 

Cung được thể hiện thông qua Khối lượng có và Mức sẵn sàng cung ứng về một loại hàng hóa của người bán tại một mức giá xác định - Trong một thời điểm xác định.

Biểu cầu/Biểu cung - Hàm số cầu/Hàm số cung là các công cụ biểu diễn Cung - Cầu trong nghiên cứu Kinh tế học. Đường cầu có xu hướng tỷ lệ nghịch với giá cả, còn đường cung tỷ lệ thuận với giá cả nên xu hướng Cung - Cầu luôn ngược chiều nhau - Điểm giao cắt giữa đường cung và đường cầu là điểm xác định mức giá và sản lượng tối ưu được cả người mua và người bán chấp thuận - Cân bằng Cầu - Cung được thiết lập. 

Số lượng người mua, sở thích - thái độ, giá cả kỳ vọng, mức thu nhập, hàng hóa bổ sung/thay thế,...là các yếu tố dẫn tới dịch Cầu (Sự chuyển dịch của Cầu thị trường). Trình độ công nghệ, giá cả của các yếu tố đầu vào/các hàng hóa liên quan (Cạnh tranh đầu vào và hàng hóa phái sinh/ăn theo), giá bán kỳ vọng, chính sách của Nhà nước,...là các yếu tố làm dịch Cung. Trong thực tế, các quá trình chuyển dịch Cung - Cầu luôn diễn ra đồng thời với tính chất hết sức phức tạp - Do đó, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro. 
Căn cứ theo nội dung hàng hóa trao đổi chúng ta có hai loại thị trường là thị trường Đầu ra (Hàng hóa tiêu dùng) (như thực phẩm, thời trang, mỹ phẩm, đồ chơi trẻ em,...) và thị trường Đầu vào (Yếu tố sản xuất) (Như vốn hiện vật - máy móc, nhà xưởng,...; đất đai; lao động,...). Căn cứ theo cấu trúc thị trường (số lượng và mối quan hệ tương tác giữa người Mua và người Bán), chúng ta có thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (Độc quyền thuần túy, độc quyền nhóm và thị trường có tính chất độc quyền). Theo không gian kinh tế (Thường gắn với nội dung hàng hóa trao đổi), chúng ta có thị trường Thế giới, Khu vực, Quốc gia, vùng miền - địa phương.


3. Người tiêu dùng

Người tiêu dùng là mục tiêu hướng tới để phục vụ nhằm tìm kiếm lợi ích kinh tế của các nhà sản xuất kinh doanh. Hàng hóa được sản xuất ra phải hợp sở thích và vừa túi tiền của đối tượng khách hàng mục tiêu thì mới có khả năng đem lại được lợi nhuận cao nhất.
Kinh tế học nghiên cứu sở thích của người tiêu dùng trên hai phương diện - Một là vai trò của sở thích trong hoạt động mua sắm, và Hai là sự biến đổi của sở thích sẽ gây ra hệ quả gì. Các giả định được đưa ra là tính trật tự của sở thích (thích hơn > Thích > Thích kém); tính bắc cầu (nhất quán); người tiêu dùng thích nhiều hơn ít và người tiêu dùng muốn tối đa hóa độ thỏa dụng. Ngân sách là yếu tố ràng buộc việc lựa chọn hàng hóa của đa số người tiêu dùng. 

Kết luận: Khối lượng mua được quyết định bởi Giá - Sở thích và Thu nhập (Lý thuyết người tiêu dùng)

3. Doanh nghiệp

Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có chức năng là tổ chức và sử dụng các yếu tố đầu vào hiệu quả để sản xuất ra các sản phẩm đầu ra thích hợp (Có hiệu quả kinh tế cao). 

Ba vấn về căn bản của một Doanh nghiệp là Chi phí, Lợi nhuận và Hành vi cung ứng.
Chi phí được phân làm ba loại, là chi phí kế toán, chi phí kinh tế (có tính đến chi phí cơ hội) - với các thước đo là tổng chi phí, chi phí bình quân, chi phí biên và các chi phí ngắn hạn (Cố định, biến đổi, cố định bình quân), chi phí dài hạn, chi phí quy mô (lợi thế/bất lợi thế về quy mô và đường hiệu suất không đổi/Quy mô). Cuối cùng, các yếu tố quyết định hành vi cung ứng của doanh nghiệp là tổng doanh thu, doanh thu biên và lợi nhuận. 

4. Nhà nước

Hệ quả tất yếu của nền kinh tế tự do là sự tích tụ tư bản - Nghĩa là người có tiền sẽ ngày càng tích lũy được nhiều tiền và người ít tiền sẽ ngày càng ít tiền và phải sống phụ thuộc vào các cơ sở kinh doanh của người nhiều tiền. Đó chính là mặt trái của sự phát triển kinh tế năng động - Các khuyết tật của thị trường (nơi hàng hóa và tiền tệ là các yếu tố quyết định). Các khuyết tật của thị trường bao gồm: sự tồn tại độc quyền, ngoại ứng tích cực/tiêu cực, sự thiếu hụt thông tin, bất công trong phân phối thu nhập, mất ổn định kinh tế vỹ mô (chu kỳ suy thoái của nền kinh tế)

Với các công cụ luật pháp, thuế khóa và các chính sách kinh tế vỹ mô khác (như tiền tệ, lương cơ bản, giá sàn/trần, xuất nhập khẩu,...) - Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có mục tiêu đem lại sự công bằng, hiệu quả và ổn định cho nền kinh tế như một ông trọng tài - Để các hoạt động kinh tế dù được phát triển tự do nhưng vẫn không tăng trưởng quá mức (mất kiểm soát) rồi bùng nổ và tự tiêu diệt chính mình. 

(TG Fashion - www.tgfashionstyle.com - Hân hạnh tài trợ!)