300x250 AD TOP

Trần Hải Anh (PD.Châu Nhật Vi)

Powered by Blogger.

About Me

My photo
Cuộc đời của Con là công trình của Ba, Mẹ.

VIỆT NAM & ĐẠO PHẬT

TẠI SAO??? - Ở VIỆT NAM,  CÁI GÌ HAY HO  CŨNG THUỘC VỀ/LIÊN QUAN TỚI ĐẠO PHẬT Đó là vì những điều lịch sử cơ bản như sau: (*) 1.      Thời...

Search This Blog

Search This Blog

Translate

Translate

Pages

Friday, May 31, 2019

Sống đơn giản

Khi tham gia một cuộc leo núi, một hành trình vượt đường trường, một cuộc chiến đấu xa “chiến khu” dai dẳng, dài ngày, v.v… hành trang cá nhân của mỗi người luôn phải hạn chế ở mức tối thiểu để tránh tổn hao sức lực do mang vác trong suốt quá trình di chuyển.

Trong một bộ phim tài liệu nói về những kỷ niệm thời chiến của thế hệ thanh niên “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”, một bác kể lại rằng, khi ra chiến trường đã cầm theo một cuốn sách để vơi bớt cảm giác nhớ trường lớp và những con chữ. Nhưng rồi chỉ vài ngày sau đã phải để cuốn sách kỷ niệm đó lại trên đường hành quân vì chặng đường còn quá dài và nếu không bỏ bớt những thứ không thiết yếu với sinh hoạt hàng ngày thì không thể đủ sức mà di chuyển.
Thế mới biết, càng muốn đi “thật xa” thì hành lý mang theo càng cần phải “thật nhẹ”. Người muốn càng làm được nhiều việc ý nghĩa trong đời thì càng phải biết buông bỏ thật nhiều những “vật dụng” và “nhu cầu” không cần thiết để tránh vướng víu, rườm rà.

(*)

Mỗi chúng ta đều có rất nhiều nhu cầu từ cơ bản như ăn, uống, ngủ, nghỉ, vệ sinh, học tập, giao tiếp,…, đến không cơ bản như ăn ngon, mặc đẹp, uống cà phê, đi thẩm mỹ viện chăm sóc sắc đẹp, đến tiệm mát xa để được thư giãn, tắm bùn, tắm khoáng, nghe hòa nhạc, đi du lịch, triển lãm, v.v… Lối sống tiêu thụ luôn không ngừng phát sinh những mời gọi mới khiến danh sách nhu cầu trong cuộc sống của chúng ta dường như không bao giờ ngừng tăng tiến.

Chúng ta dường như không bao giờ biết “đủ” – Luôn cảm thấy “thiếu thốn” và cần được “lấp đầy”. Chúng ta không ngừng mua sắm, không ngừng tiêu thụ, không ngừng gia tăng nhu cầu hưởng thụ trong suốt cuộc đời mình theo sự phát triển của đời sống vật chất. Mà chúng ta càng có nhiều “nhu cầu” thì chúng ta càng “dễ chết” và “không thể sống nổi” – Vì chỉ cần một nhu cầu không được đáp ứng đúng ý cũng khiến chúng ta bứt rứt, khó chịu, “khó ở” và không an ổn.

Không thể đi ra ngoài khi chưa trang điểm, không thể tự tin khi cả năm trời chưa thay đổi quần áo mới, không thể đi đám cưới với bộ đồ mọi người đã trong thấy vài lần, không thể ngủ được nếu không có tiếng nhạc du dương – réo rắt bên tai, không thể ngủ được nếu không có máy lạnh, không thể sống nổi nếu không tắm trong hai ngày, không thể nuốt nổi những đồ ăn không ngon, không thể sống được nếu thiếu điện thoại, internet, v.v… Càng lúc cuộc sống của chúng ta càng phức tạp, rườm rà và phải phụ thuộc vào lắm thứ tiện nghi.

Vậy những tiện nghi đó đang trợ giúp chúng ta trong cuộc sống hay đang từng bước khiến chúng ta trở nên yếu đuối và phụ thuộc vào chúng nhiều hơn? Là chúng ta đang “sử dụng” chúng hay chúng đang “thao túng” - “điều khiển” cuộc sống của chúng ta?

(*)

Đàn ông đích thực cần khoảng 10 phút sửa soạn để bước ra ngoài với tôn chỉ cơ thể sạch sẽ, áo quần là ủi tươm tất là đủ. Đàn ông điệu đà và phụ nữ cần điểm tô thì khó mà định vị được khoảng thời gian cần thiết cho việc “sửa soạn” là bao nhiêu. Đời sống đơn giản vì vậy mà luôn tiết kiệm thời gian, nhẹ nhàng và “cơ động” hơn một đời sống lủng lẳng, đeo mang nhiều thứ nhu cầu và tiện nghi lỉnh kỉnh. Mà nếu phải chú tâm quá nhiều vào những điều nhỏ bé, vụn vặt thường ngày thì tầm nhìn của chúng ta sẽ không được giải phóng, tư tưởng của chúng ta sẽ không thể thăng hoa.  

Một làn da sợ ánh nắng, một cánh tay sợ mang vác đồ nặng, một cái đầu sợ suy nghĩ nhiều vì chóng già hay một khuôn mặt không dám cười, không dám nói vì sợ nếp nhăn nhưng lại luôn sẵn sàng qoẹo đeo, nhăn nhó mỗi khi trái ý nghịch lòng thì sao có thể dấn thân vào gian khó, sao có thể sống an vui trong một môi trường thiếu thốn - nghèo nàn, sao có thể sẵn sàng vặn hết “sinh lực” mà cống hiến – hy sinh – phục vụ người khác? Mà nếu không dám làm những việc xông pha như vậy thì biết bao giờ chúng ta mới có thể trở thành người lớn. Biết bao giờ chúng ta mới có thể đứng lên – Vươn vai mà gánh vác những việc khó khăn cho gia đình và xã hội. Chẳng lẽ lại “Đâu cần thanh niên có, nhưng khó thì thanh niên vong…”?

Vì vậy, dẫu biết bản năng của mỗi chúng ta là ưa sướng, lánh khổ. Nhưng để có thể làm một người hữu ích cho mọi người, để có thể cống hiến được nhiều hơn cho cuộc đời – vì một hạnh phúc bền vững trong tương lai thì chúng ta không còn cách nào khác là phải gắng sức mình mà vượt thắng – lấn át đi cái bản năng hưởng thụ lớn lao, sâu dày nhưng quá sức tầm thường này. Phải tập sống một đời sống đơn giản, ít nhu cầu hưởng thụ để được thong dong, tự tại – Không sợ hãi âu lo mà luôn can đảm, vững vàng dấn thân vào cuộc đời, làm lợi ích cho mọi người.
Đừng dại dột để cho bản năng hưởng thụ ích kỷ, tẩm thường mặc sức kéo lui chúng ta xuống làm một cá nhân chỉ quen sống biếng nhác, ưa nhàn hạ, thích đời sống xa hoa, sang trọng, rườm rà, phức tạp khi vẫn còn sung sức – Vì chẳng ai sống biếng nhác và ưa hưởng thụ mà có thể hạnh phúc tới cuối đời.

Tất cả những người biếng nhác và hưởng thụ quá nhiều khi còn trẻ thì về già đều thảm bại, túng thiếu và khổ đau. Cuộc đời “thất bại” của những siêu sao màn bạc khắp Âu Á, Đông Tây và ngay cả ở nước ta đều hết sức “dư dả” để minh chứng cho “luận điểm” này của luật Nhân Quả. Thậm chí chưa cần tới cuối đời thì ngay trong từng giây phút của đời sống sai lầm đó, họ đã tự nguyện trở thành một kẻ nô lệ hèn mạt cho chính bản năng hưởng thụ của mình mà không biết – Đã thể hiện ra trước mọi người một nhân cách bạc nhược, yếu đuối và vô dụng mà không hay - Mà vẫn tưởng mình là “sành điệu” – “khôn ngoan” hơn tất cả!

Chúng ta nghĩ gì khi một người còn khỏe mạnh - Đã nghèo mà còn biếng nhác, sống cầu kì và ưa hưởng thụ? Chúng ta nghĩ sao về một người có địa vị cao, quyền chức lớn, được quyền lựa chọn tùy ý trong đời sống nhưng vẫn chọn một căn nhà nhỏ, giản dị, khiêm tốn của một người “gác vườn” và hàng ngày là ba bữa cơm đạm bạc - Định kỳ mấy bữa nhịn một bữa để góp gạo chia sẻ với những người còn đang đói khổ? – Chỉ những con người có đời sống đơn giản như vậy, khiêm tốn – giản dị như vậy mới “đủ phước” để trở thành những Nhân cách lớn - Những biểu tượng cao cả, vỹ đại giữa cuộc đời đầy rẫy tầm thường và kém cỏi này.
(*)

Chúng ta không có tham vọng trở thành vỹ nhân, không mơ ước cao xa được trở nên cao cả. Nhưng tất cả chúng ta đều cần có một đời sống ít hưởng thụ; phù hợp với bổn phận, trách nhiệm của mình và hòa hợp được với bối cảnh xung quanh - Để không bị ràng buộc vào quá nhiều “tiện nghi” vật chất mà tự do, thoải mái “đầu tư” trọn vẹn những gì mình có cho những điều ý nghĩa - Cho những điều có khả năng mang lại lợi ích lâu dài cho chúng ta và tất cả mọi người.

Nếu có thể ăn hai món là đủ thì đừng ăn 5 món, 6 món. Nếu chỉ 5 bộ đồ là đủ thì đừng mua cả chục, cả trăm bộ đồ đẹp mắt mà kém chất lượng để rồi bỏ đi uổng phí. Nếu vẫn có thể chịu nóng để ngủ thì đừng đòi hỏi thêm quạt cây hay máy lạnh. Nếu chiếc xe vẫn còn chạy tốt thì cũng không cần ráng vay tiền mua chiếc khác đẹp hơn cho bằng bạn bằng bè. Bản năng hưởng thụ là không giới hạn, nhưng sức chi trả của ta - “Phước đức” của ta thì hạn hẹp vô cùng. Nên cứ phóng túng, xa hoa, chiều chuộng theo bản năng hưởng thụ, làm mười ăn hết mười bốn thì chỉ tàn mạt mà thôi.

(*)

Khi ta sống một đời sống hợp lý, đơn giản, không phung phí những vật chất ít ỏi mà mình có theo sự xúi bảy của bản năng hưởng thụ - Cưỡng lại được “khuyết tật” cố hữu, sâu dày này trong tự thân - Thì ta sẽ có được một sức mạnh “kiềm chế” và “nhẫn nhục” rất lớn để thắng lướt nhiều nghịch cảnh bên ngoài, Vượt qua được nhiều khó khăn, thử thách trong đời sống để phát triển năng lực bản thân, làm được nhiều điều ích lợi cho mọi người. Từ đây ta sẽ dần xử lý được nhiều vấn đề khó khăn hơn cho xã hội – Được đảm nhận nhiều bổn phận hơn trong gia đình, lối phố, công sở,… và sẽ có một mức sống “dâng cao” bền vững - Thậm chí, ta khó lòng giữ được một mức sống quá thấp khi ta đang phải đảm nhận một chức vụ quá cao. Đó chính là lúc luật Nhân Quả “ép” chúng ta phải “gặt hái” – “hưởng thụ” những quả ngọt mà ta đã gieo nhân trước đó. Lúc này càng phải tỉnh táo và thông minh hơn bội phần thì ta mới có thể khéo léo duy trì một đời sống đơn giản để “tiết kiệm” phước báo – Không xài hết vào việc hưởng thụ mà “để dành” – “đầu tư” phát triển những điều quý giá khác như đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh sống, v.v…
Khi có ít tiền, ta rất dễ lướt qua nhanh một cửa tiệm quần áo lớn, một nhà hàng sang trọng, một khách sạn xa hoa. Nhưng khi ta dư sức để chi trả cho những điều đó thì ta khó lòng mà cưỡng lại “ham muốn” được “hưởng thụ” của bản thân. Do đó, những khách hàng “có khả năng chi trả” luôn là những con mồi béo bở mà các nhà kinh doanh tập trung “chăm sóc”. Và khi đã xài hết tiền vào những chốn “tiêu thụ” như vậy thì ta sẽ không còn tiền để đi học nữa. Không còn tiền để tái đầu tư nữa. Không còn tiền để dự phòng rủi do nữa, v.v… và muôn ngàn khó khăn lại ùa tới, làm lung lay đời sống vừa mới chớm “ngóc dậy” của chúng ta – Đây là dấu hiệu cảnh báo của luật Nhân Quả rằng chúng ta đã sắp “tiêu xài” hết “Phước”.
Do đó, cả những người giàu có, trong cuộc đời gặp nhiều may mắn cũng phải ráng “tu luyện” một đời sống đơn giản để tiết kiệm phước chứ không chỉ riêng những người đang chật vật, khó khăn.

Sự an vui, sung sướng trong cuộc đời này rất linh động chứ không hề cố định. Ngày hôm nay ta giàu nhưng ngày mai ta có thể ngay lập tức rơi vào túng thiếu. Bởi luật Nhân Quả luôn theo sát từng bước đi của ta, từng hành vi, cử chỉ của ta để “cập nhập” vào dòng phước nghiệp của ta mà “phân phối” phước báo (sự giàu có, an vui, sung túc, v.v…) cho phù hợp, chính xác và công bằng.

(*)

Đây là lý do Đức Phật tổ chức cho những học trò của mình một đời sống vô cùng “tối giản”.

Không có tóc để không cần bận tâm về giai cấp, địa vị (trong thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ nhận diện giai cấp qua các kiểu “làm tóc”) và việc vệ sinh, gội rửa. Sống gần gũi với thiên nhiên, ngủ ở gốc cây, bờ đá chứ chẳng nhất định phải có mái có nhà. Không điểm tô, không trang sức, không tích trữ tài sản – thậm chí một chút đồ ăn “để dành” qua đêm cũng không được. Không ca múa nhạc, không bàn luận phước báo thế gian (nói chung là không “Bà tám”). Chỉ dùng ba bộ đồ giống y hệt nhau và không hề đổi mốt suốt hai mùa mưa nắng và suốt cả cuộc đời. Một chiếc chén lớn (bình bát) để đi khất thực – Vừa không bận rộn việc bếp núc, vừa gieo duyên với cuộc đời – Khuyến khích mọi người phát khởi tâm “bố thí – xả bỏ” để triệt phá tâm “ tham lam - chấp giữ”; gieo nhân lành qua việc giúp đỡ những người có đạo đức - những bậc chân tu suốt đời đem đến những lành thiện cho cuộc đời để đời này cùng nhiều đời sau được thụ hưởng nhiều phước báo trong đời sống và sự tu tập.   
Ngay cả những người học trò chưa đủ nhân duyên để “ly khai” khỏi đời sống thế tục (các Phật Tử tại gia) cũng được Đức Phật chỉ dạy phải đơn giản trong cách ăn uống, phục sức và lối sống để dành hết thời gian, tâm sức tu hành Thiền định, học hỏi Chánh pháp bên cạnh bộn bề những bổn phận với gia đình và xã hội.

Vậy nên khi tới chùa – Bất luận đẹp xấu, giàu nghèo, tất cả chúng ta đều phải ăn mặc kín đáo, giản dị, thậm chí “đồng phục” luôn! - Để tránh làm động tâm “phân biệt”  của tất cả mọi người và “kích động” bản năng hơn thua, thích “cá tính” – thích “nổi bật” của chúng ta. Đã vào chùa là phải “đồng loạt” giữ thái độ thành kính, khiêm cung, nhịn nhường – nhu thuận, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau bất phân tuổi tác. Người lớn tuổi không ỷ thế “tuổi tác” mà phách lối, lên đời buộc mọi người phải lắng nghe. Người nhỏ tuổi không được vin vào tình thương của mọi người mà mè nheo, nhõng nhẽo, đòi hỏi mọi người phải chiều chuộng thái quá. Bước qua cửa chùa là phải bỏ hết mọi đòi hỏi và nhận hết mọi trách nhiệm san sẻ, yêu thương, hy sinh – Để  chuyên tâm thực hành diệt trừ “Bản ngã”.
Đức Phật dạy dỗ ta, răn nhắc ta, chỉ cho ta con đường thực tập để sống được một cuộc đời đơn giản không chỉ trong đời sống vật chất mà trong cả nội tâm – Hướng chúng ta “xả ly” mọi sự cố chấp, mọi thành kiến, mọi đòi hỏi với cuộc đời. Dạy ta không xa hoa cầu kì, không hơn thua tật đố, không tham lam tranh giành, không nói lời xúc não mọi người – Luôn ý thức lỗi mình, luôn nhận lỗi về mình, nâng đỡ - cảm thông – tha thứ mọi điều dù là xấu ác mà người khác có lỡ gây ra cho mình. Mong mỏi chúng ta từng chút vượt lên, thoát khỏ chấp ngã “vô minh” của mình, cái tôi “ích kỷ” của mình để tung bay giải thoát – Làm một người ung dung tự tại giữa cõi đời lắm ràng buộc, khổ não, bon chen này mà đủ sức thương yêu tất cả - Kiên trì, nhẫn nại độ thoát muôn loài vượt qua bể khổ - Tới bờ an vui.

(*)

Ấy vậy mà chúng ta chẳng chịu nghe lời!

Chúng ta chẳng lo học hỏi – thực tập những điều suốt cả cuộc đời Đức Phật khổ công chỉ dạy, răn nhắc, dặn dò mà chỉ mải lo săm soi, xỉa sói lỗi lầm – khuyết điểm của người khác để rồi “cái tôi” trong mình cứ mỗi lúc một “to” ra theo từng năm tháng đi chùa cũng chẳng hay, chẳng biết - “Chẳng thèm” nhìn lại.

Phật dạy ta phải “ngoái vào” để lo sửa tâm mình mà ta thì cứ “ngoái ra” để lo “sửa” thiên hạ!

Cứ đến chùa được vài năm, vài chục năm - Cứ lạy phật được vài trăm, vài ngàn là tự cho rằng mình đã được “tung bay giải thoát” – đã “vượt trên phàm trần” – đã “hơn hẳn” mọi người - Để rồi càng tới chùa, càng lễ Phật thì càng kiêu căng, tự phụ, chẳng coi ai ra gì. Đụng đâu cũng gọi người này, người kia là “chúng sinh”, đụng đâu cũng sân si mắng mỏ người khác là vô minh, tầm thường, kém cỏi, không biết đạo lý, v.v…

Chúng ta độ ai tới bờ an vui thì chẳng thấy mà cứ hễ nhìn thấy chúng ta là mọi người không sợ hãi thì chán ghét tất cả mọi thứ liên quan tới chùa chiền, kinh điển – Tất cả những gì liên quan tới chúng ta. Chúng ta càng đi chùa nhiều bao nhiêu, càng mặc áo tràng lễ Phật nhiều bao nhiêu thì Đức Phật - Đạo Phật càng bị hoài nghi nhiều bấy nhiêu. Những người tu hành chân chính càng khó khăn trong việc hoằng pháp, độ sinh – Thuyết phục mọi người tìm về bến giác bấy nhiêu.
Vậy nên, xin hãy ý thức thật kỹ tấm áo tràng quý giá mà chúng ta đang được khoác trên mình. Xin hãy ý thức rõ những trách nhiệm và bổn phẩn của chúng ta trước Đức Phật, Giáo Pháp và những bậc Tu Hành Chân chính khi chúng ta mang danh là một người “Phật Tử” mà ráng chuyên tâm học hiểu giáo pháp cho thật nhiều, ráng chuyên tu thực hành lời Phật dạy cho thật nhiều chứ đừng vội vã chưa có gì trong tim, chưa có chi trong óc đã muốn nhảy lên làm “Thầy đời” tất cả - Làm xấu đi bản thân mình. Làm xấu đi Đạo Phật. Làm xấu đi Đức Phật cao quý - và “Thiêu rụi” mọi duyên lành của những người chưa từng được tiếp xúc với những lời chỉ dạy thiết thực, nhiệm màu của Đức Phật - Chỉ vì mới thấp thoáng thấy “dáng ta” là họ đã muốn chạy đi cho thật xa.




Thursday, May 30, 2019

Vị tha

Muốn có được những sản phẩm tốt thì trước tiên cần có điều gì? Đó là sự hiểu biết về những “nhu cầu” chưa được đáp ứng của khách hàng – Hay nói cách khác là cần có sự hướng “tâm” ra bên ngoài (về phía khách hàng) mà quan sát, tìm hiểu, suy ngẫm, phát hiện ra những gì đang gây trở ngại, khó khăn cho mọi người, làm cho mọi người chưa được thuận tiện trong đời sống - Để rồi từ đó mà tìm cách khắc phục khó khăn “giùm” họ thông qua các sản phẩm của mình.

Muốn được người khác chấp nhận, lắng nghe, yêu thương, gắn bó thì trước tiên ta cần phải làm cho được điều gì? Đó là hướng suy nghĩ về tất cả mọi người, hiểu họ có đặc điểm tính cách như thế nào – Thích gì, ghét gì; hiểu họ đang cần điều gì, đang tránh điều gì; đang thuận lợi ở đâu, khó khăn ở chỗ nào, v.v… rồi từ đó quay trở lại tự hỏi bản thân mình rằng: “Vậy ta có thể làm được điều gì để giúp đời sống của mọi người trở nên tốt đẹp hơn?” – Trả lời được rồi thì bắt tay vào hành động ngay để đem tới cho tất cả sự an ổn trong tâm hồn và niềm an vui trong cuộc sống bằng tất cả những khả năng mà mình có.
Chúng ta có thương mến những người luôn chú ý tới ta, quan tâm, chăm sóc và đáp ứng nhanh chóng bằng hành động thích hợp mỗi khi chúng ta có “nhu cầu” hoặc cần tới sự trợ giúp hay không? Và khi thương mến rồi thì chúng ta cũng sẽ sẵn lòng giúp đỡ những người ta thương mến - Tất cả những gì họ cần và chúng ta có thể phải không?

Đó là quy luật thông thường, dễ nhận biết của tình cảm mà bản chất sâu xa là sự khách quan, công bằng của luật Nhân Quả. Chúng ta gieo yêu thương, nâng đỡ - Giúp người khác thành công thì chúng ta mới có thể gặt được quả yêu thương, nâng đỡ và hỗ trợ từ phía người khác trong đời sống và sự nghiệp của mình.

(*)

Những người đạt được thành công hay sự nổi tiếng thật sự trong xã hội – Được nhiều người yêu mến đều là những người đã đem tới nhiều điều “lợi ích” cho mọi người. Càng đem lại nhiều “lợi ích” cho đời bao nhiêu thì bản thân càng nhận lại nhiều “lợi ích” và “vinh quang” bấy nhiêu. 

Công ty nào có nhiều khách hàng hơn – phục vụ được nhiều người hơn thì thành công hơn. Người nào đem lại nhiều niềm vui, cảm xúc tích cực cho cuộc đời hơn thì đời sống được vui vẻ, tích cực hơn. Người nào hay cho đi nụ cười thì sẽ nhận lại nhiều nụ cười. Người nào mang đến sự lạnh lùng và thù hận cho cuộc đời thì sẽ nhận lại sự hắt hủi, xa lánh và chối bỏ từ mọi người.  

Bản năng của con người là vị kỷ, là vun vén cho chính mình - Vì tất cả chúng ta đều đeo mang suốt đời một ảo ảnh mãnh liệt về một “cái tôi” không thật. Chúng ta tin rằng “Cái tôi” này là riêng biệt và khác biệt với tất cả những “Cái tôi” khác, nên mỗi người đều cho rằng sống vì chính mình (vì “cái tôi” của mình) mới là điều đúng và sống cho người khác – sống một cách “Vị tha” – Đem tới lợi ích và niềm vui cho những “cái tôi” khác là điều “khờ dại”. Vậy nên, tất cả chúng ta dù ít hay nhiều cũng đã sống một cách rất sai lầm – Đi ngược lại nguyên lý vận hành của luật Nhân Quả. Và tới đây chắc bạn đã hiểu tại sao thế giới của chúng ta, cuộc đời của chúng ta lại có quá nhiều đau khổ và bất hạnh đến như vậy.
Bản thân chúng ta và hoàn cảnh sống của chúng ta chính là sự phản chiếu từ cách nghĩ và cách sống của chúng ta trong đời này và nhiều đời khác.

(*)

Vậy cho yêu thương để được yêu thương, giúp người khác thành công để sau này mình được họ “trả ơn” thì có thể thành công và được yêu thương hay không? Tất nhiên là được – vì đó là sự công bằng và khách quan của luật Nhân Quả. Nhưng cái chúng ta được nhận lại sẽ là những yêu thương giả dối và những thành công không bền. Vì chúng ta đã thương yêu không thật lòng và đã giúp đỡ người khác một cách toan tính, vụ lợi chứ không bằng một niềm mong mỏi thực sự được thấy người khác thành công.

“Vị tha” – Sống vì người khác mới là hạt giống “đúng” đem đến thành công và hạnh phúc thật sự cho chúng ta. Tất cả những việc làm mang “hình thức” vị tha mà che đậy bản chất bên trong là “vị kỷ” – Làm việc tốt chỉ vì mong cầu lợi ích cho chính bản thân mình thì đều nhận lại những kết quả không tốt lành tương ứng. Sự vị kỷ - lối sống “ích kỷ’’ là hạt giống khổ đau – Và cho dù ta cố gắng ngụy trang, che dấu thế nào thì cuối cùng nó cũng phải trổ ra những trái đắng cho người đã chọn gieo trồng nhân xấu.
Vì vậy, dẫu biết rằng luật Nhân Quả là công bằng, dẫu biết rằng cho đi nhiều là sẽ nhận lại được nhiều nhưng hãy quên đi tất cả những phép tính cộng trừ - nhân chia đó mà nỗ lực sống một cuộc đời thương yêu vô điều kiện. Dù biết rằng giúp đỡ một ông chủ lớn sẽ được nhiều “phần thưởng” hơn nhưng đừng hờ hững, vô tâm trước một người ăn xin đang đói khát, quằn mình trong gió lạnh. Dù biết rằng giúp đỡ những em nhỏ lành lặn thì tương lai chúng sẽ làm được nhiều việc có ích hơn cho xã hội nhưng cũng đừng thờ ơ, bỏ mặc một em bé tật nguyền đang ở ngay trước mặt. Và dù biết rằng có những người nhận ơn xong là sẽ chẳng bao giờ hồi báo nhưng cũng đừng vì vậy mà bỏ mặc họ trong những lúc éo le. Bởi “hệ số” lớn nhất trong biểu thức “Nhân Quả” là ý thức nội tâm của ta – Là “đạo đức” của ta.

Nếu vì hoàn cảnh khó khăn mà ta chỉ có thể cho đi một ly trà đá, một phần cơm chay đạm bạc – nhưng đi kèm theo đó một niềm cảm thông sâu sắc, một tình thương đến cắt gan, cắt ruột dành cho những thân phận nghèo khó thì ta sẽ được nhận lại một phần thưởng lớn lao hơn rất nhiều so với một ông chủ lớn tiện tay rút trong ví ra vài triệu đồng mà quăng vào mặt những người đói khổ rồi bước đi một cách lạnh lùng. Bởi ta biết rằng – Nguyên nhân của mọi sự thành bại ở trên đời trong nhiều đời, nhiều kiếp đều có gốc rễ là đạo đức. Không có đạo đức, không có cách sống đúng thì dù “đủ phước” để đốt tiền mà nấu chín cả nồi đậu xanh như Hắc Công Tử, Bạch Công Tử - Rồi cũng tàn mạt, cùng quẫn trong cảnh túng thiếu và sự hắt hủi, lạnh nhạt của người đời.

(*)


Tiền của bao nhiêu rồi cũng hết. Phước báo bao nhiêu rồi cũng cạn. Nên cho dù bản thân đã làm được rất nhiều việc tốt, cho dù cuộc sống của mình đã được no ấm, đủ đầy, an vui, hạnh phúc rồi thì cũng đừng khờ dại chỉ ngồi không mà tận hưởng. Sự thỏa mãn là điểm khởi đầu cho quá trình lui lại phía sau. Vậy nên tất cả chúng ta phải hết sức siêng năng làm những việc tốt, hết sức chăm chỉ làm những việc thiện – Nỗ lực từng ngày đem lại hạnh phúc, an vui cho mọi người một cách không dừng nghỉ.

Đừng mất thì giờ với những trò chơi con trẻ  - “Tự ám thị” mình là người hạnh phúc trong khi biết rõ bản thân còn quá nhiều phiền muộn, cuộc sống còn quá nhiều bất an. Làm sao có thể tự lừa dối được chính mình trong một trạng thái tinh thần tỉnh táo? Vậy nên đừng cố gắng tỏ vẻ an vui, tự tại khi mà một lý do để mỉm cười cũng chẳng thể tìm thấy trong sâu thẳm tâm hồn mình.  
Đừng mãi chui rúc, lẩn trốn trong vỏ ốc của vị kỷ nữa - Hãy lần theo ánh sáng của “Vị tha” mà dũng cảm bước ra bên ngoài, đến với mọi người, gần gũi mọi người và cảm nhận những nỗi vất vả của cuộc đời – Gắng hết sức mình làm dịu mát đi những nóng bức, khổ đau đó và lắng nghe sự đáp lời của luật Nhân Quả công bằng.


“Có bao giờ em thấy lòng khắc khoải,
Khi con người còn là sói với nhau.
Và cuộc đời còn ray rứt khổ đau,
Khi ác pháp vẫn lan tràn gieo rắc.

Có bao giờ em nghe lòng thổn thức
Vì quanh em là sự sống đua tranh,
Suối tình thương không tuôn chảy an lành
Đã tắc nghẽn bởi tham lam thù hận.

Có bao giờ em mơ ước vơ vẩn,
Về quê hương ngập ánh sáng tình thương
Cõi nhân gian đã hiện bóng thiên đường
Vì thiện pháp đã giăng đầy mọi lối

Đời nhân thế sẽ không còn u tối,
Nếu đường đi của Nhân Quả nghiệp duyên
Được tuyên dương, thắp sáng khắp mọi miền
Trong em bé, cụ già, trong tất cả.”

(TT.Thích Chân Quang)




Tuesday, May 28, 2019

Nhẫn nhục

Sống trong cuộc đời, mỗi chúng ta ai cũng cần có những mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh. Ngay cả những người bên ngoài tỏ ra vô cùng lạnh lùng, khắc nghiệt với cuộc đời thì bên trong họ cũng có những khát khao rất lớn về tình yêu thương. Những người thù hận cuộc đời nhiều nhất là những người đã từng thương yêu cuộc đời nhiều nhất, nhưng vì một lý do nào đó, họ cảm thấy hoặc thực sự bị cuộc đời quay lưng lại, đối xử một cách lạnh lùng, tàn nhẫn, nên họ bị tổn thương lòng tin và lòng tự trọng rồi quay sang thù ghét đời, thù ghét người - Trở thành một sa mạc khô cằn, một ốc đảo hoang vu giữa một thế gian vốn đã đầy rẫy những điều đau khổ, nghịch cảnh và bất như ý.

Cuộc sống của mỗi chúng ta chất chứa đầy rẫy những điều “ngang trái”, những nỗi khổ, niềm đau mà chỉ chính mỗi người mới tự mình biết rõ. Có thể một vài lúc quá vui vẻ khiến ta tạm quên đi những mệt mỏi và gánh nặng trong đời, nhưng rồi những thử thách lại trở về, những khó khăn lại tiến đến và ta cần phải tiếp tục đối diện, tiếp tục chịu đựng. Chúng ta có thể đi xa được bao nhiêu - Thành tựu được tới mức nào là tùy thuộc hoàn toàn nơi sức chịu đựng của ta - Khả năng "chống chịu" và thích nghi (sức "Nhẫn nhục") của ta trước những thử thách của cuộc đời. 

(*)

“Cho tôi một vé trở về tuổi thơ” – Là câu chuyện do một người lớn viết và mãi mãi chỉ là ước mơ của những người lớn. 

Nếu ai còn nhớ thật rõ về chặng đường tuổi thơ đã đi qua thì chắc chắn sẽ không quên được nỗi sợ hãi đến tận cùng vì bất cứ điều gì bị người lớn phóng tưởng, hù dọa. Không thể quên được những cơn ác mộng, những nỗi ám ảnh về tin đồn ông kẹ, ông ba bị, bà già mặc đồ đỏ hay đi bắt trẻ em. Không thể quên được những mệt mỏi, căng thẳng mỗi khi làm bài tập – chiến đấu với sự ngu dốt của đầu óc, mỗi khi rèn luyện thể lực – chiến đấu với sự yếu ớt của cơ bắp và sự yếu đuối của tinh thần.  

Người lớn là những người đã hoàn thành rất nhiều năm tháng học tập, lao động và va chạm với đời nên những hoạt động như học tập, chạy nhạy, rèn luyện của trẻ em đối với chúng ta rất nhẹ nhàng và thư giãn nên chúng ta mới khao khát muốn trở về, muốn tìm lại. Còn trẻ em thì vẫn chỉ là những người chiến binh mới chập chững bước vào sàn đấu, chúng phải chiến đấu rất vất vả và khó nhọc nên khao khát vỹ đại nhất của chúng mỗi ngày là được trở thành người lớn thật nhanh để được quyền tự quyết định ăn cái gì, học cái gì, vui chơi – ngủ nghỉ ra sao thỏa thích theo ý muốn! Vì sự thật là cuộc sống của trẻ em cũng phải “chịu đựng” rất nhiều – cũng phải “kham nhẫn” rất nhiều.

Trẻ con thường xuyên giận dữ vì những đòi hỏi của cuộc sống so với sức “chịu đựng” của chúng là quá lớn. Và trẻ con cũng thường xuyên phải “kham nhẫn” – “chịu đựng” vì đời sống của chúng vẫn còn phụ thuộc hoàn toàn vào ba mẹ và những người lớn xung quanh. Chúng nghĩ rằng chúng phải “nghe lời”, phải “chịu đựng” vì chúng chưa có đủ sức mạnh và sau này, khi trở thành người lớn như ba mẹ rồi thì chúng sẽ được hoàn toàn tự do, hoàn toàn được sống theo ý mình.  
Chỉ khi lớn lên, chúng ta mới dần nhận thức rõ rằng, trong cuộc đời này rất ít điều được như ý muốn của mình, phần lớn tất cả đều buộc ta phải tùy duyên mà chấp nhận nếu không muốn bị cả thế giới quay lưng. Từ những điều vụn vặt thường ngày trong mối quan hệ chung sống, làm việc, cho tới tình cảm riêng tư, những dự định trong sự nghiệp, thậm chí những việc làm thiện nguyện muốn cống hiến cho đời cũng chẳng điều gì là trơn tru thuận lợi – Những trở ngại, vướng mắc, khó khăn luôn có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và buộc ta phải “chấp nhận”, chịu đựng - Gồng mình vượt qua.

(*)

Có bao giờ ta nghĩ rằng, cuộc sống của chúng ta khó khăn là vì hoàn cảnh sống của ta không cho ta cơ hội tự quyết? Có bao giờ ta nghĩ rằng cứ phấn đấu nỗ lực để có địa vị cao, để được sang giàu – đầy quyền uy, có nhiều người dưới trướng – nhiều người vâng lời, phục vụ thì ta sẽ được thoải mái mọi điều, như ý mọi điều?

Tất cả chúng ta đều đã từng có những lúc khờ khạo mà nghĩ như vậy, tin như vậy, thậm chí dốc sức cả cuộc đời để theo đuổi những điều phù phiếm như vậy với ước mơ mưu tìm hạnh phúc – Mặc dù thừa biết rằng những ông chúa, bà hoàng, những người giàu sang, quyền quý, v.v… chính là những người “khó ở” nhất. Bất cứ điều gì hơi trái ý, nghịch lòng là sẵn sàng nổi xung thiên – phỉ báng, chà đạp, hành hạ người khác.
Trong thời phong kiến, tới cái ghế vua đã một lần ngồi xuống cũng phải đem lên mà thờ, một cái gạt tay lỡ làm đau vua một chút cũng đủ lý do để bị chém đầu. Trong thời hiện đại, một câu nói lỡ lời khiến cô chủ nhỏ tức giận cũng đủ để người vú già “thọ nhận” cả chục cái bạt tai và vô số lời mắng nhiếc từ những cái miệng “cao quý”. Một mức độ chịu đựng nghịch cảnh yếu kém tới như vậy – Một nội tâm ích kỷ, bạc nhược, yếu kém tới như vậy – Chỉ vài nghịch ý nhỏ nhặt như vậy cũng tự ái, cũng không thể chịu đựng nổi thì làm sao đứng vững được trong cuộc đời đầy nghịch cảnh, sóng gió này?

Những cậu bé, cô bé không may mắn phải từ nhỏ sinh ra trong giàu sang, lớn lên trong giàu có, quen được nuông chiều theo “bản ngã” – “cái tôi” ích kỷ - Thì đều trở thành những cá nhân tầm thường, kém cỏi và vô dụng nhất trong xã hội một khi không còn chỗ dựa gia đình.


(*)

Bạc tiền tài sản, phú quý vinh hoa trong cuộc đời có đó rồi mất đó. Triều đại nào rồi cũng lụi tàn, vọng tộc nào rồi cũng tan hoang, chẳng có gì là mãi mãi, chẳng có gì là trường tồn để mà dựa vào tìm yên ổn. Chỉ có trí tuệ, bản lĩnh sống – sức chống chịu, đương đầu với khó khăn, nghịch cảnh mới là điều theo ta và chi phối ta mãi mãi. Ta chịu đựng kém thì ngoại cảnh thuận lợi mấy ta cũng cảm thấy mình là người bất hạnh. Ta chịu đựng tốt thì mọi chuyện ở trên đời đều là những món quà của cuộc sống, đều là những người thầy quý giá đem tới cho ta những bài học cao quý ở trong đời.

Đi qua một cuộc đời sống gió cũng như đi qua một trường học lớn, có những người thành công – tốt nghiệp trong vinh quang, có nhiều người thất bại – lặng thầm trong đau khổ. Và cách ta hiểu về nguyên nhân của những khổ đau trong đời sẽ quyết định thái độ của ta khi thành công hoặc thất bại.

Nếu hiểu rằng đau khổ trong đời là sự bất công thì khi thất bại ta sẽ oán trách cuộc đời, cho rằng cuộc đời “thiên vị” cho những người khác và đối xử “bất công” với ta – Còn khi thành công thì ta sẽ dương dương tự đắc, tự cho mình là hay, tự nghĩ mình là giỏi nên trong “bất công” mới có thể “thành công”! - Để rồi những chịu đựng gian khó trong suốt quãng đường hướng tới thành công trở thành niềm tự hào của ta, trở thành “nguồn dinh dưỡng” nuôi lớn bản ngã của ta, cái tôi của ta – Khiến cho ta càng thành công thì càng kiêu căng, ngạo mạn, ngông cuồng, dễ dàng khinh miệt – coi thường người khác và rồi lại phải trở về với thất bại, khổ đau.

(*)

Đạo Phật không chấp nhận bất cứ một điều gì được lý giải một cách qua loa như “hiển nhiên” ,“ngẫu nhiên” hay duy ý chí từ một thế lực cao siêu nào đó mà ta không cần phải thắc mắc. Với đạo Phật, bất cứ điều gì xảy ra cũng đều phải có lý do của nó - Và lý do đó luôn xuất phát từ luật Nhân Quả công bằng.

Bất cứ người con nào của Phật (Phật Tử) cũng đều phải biết rằng - Dưới sự kiểm soát và vận hành của luật Nhân Quả công bằng, trên đời này không có gì là “bất công”, không có gì là “vô lý”. Tất cả đều có lý và tất cả đều tương ứng với nghiệp “Lành – Dữ” mà chính bản thân mỗi chúng ta đã gieo trồng, chăm bón trong nhiều đời nhiều kiếp.

Vì tất cả chúng ta đều sống ích kỷ nhiều hơn vị tha, đều tranh đoạt nhiều hơn nhịn nhường, đều tham lam nhiều hơn chia sẻ, đều biếng nhác nhiều hơn chăm chỉ, v.v…nên cuộc sống của phần lớn chúng ta không chỉ đời này mà còn nhiều đời khác sẽ còn phải gánh chịu rất nhiều nghịch cảnh và khổ đau. Bởi với lối sống ích kỷ, sai lầm của mình, chúng ta đã gây ra nhiều buồn thương, đau khổ, thiệt hại, tổn thất cho mọi người, cho xã hội. Và một ý nghĩ xấu thù ghét thế nhân, một lời nói độc địa rủa xả mọi người, một cái bạt tai – hay chỉ là một cái liếc háy, cười cợt trên nỗi đau khổ, bất hạnh của người khác, v.v… tất cả đều không thoát khỏi sự phán xử công bằng của luật Nhân Quả.

(*)

Chứng ngộ tột cùng sự vận hành của luật Nhân Quả, Đức Phật dạy chúng là phải luôn có tinh thần “Nhẫn Nhục” trong đời sống. Ai mắng con - con nguyện không mắng lại, ai đánh con - con nguyện không đánh lại, luôn luyện tập trải lòng từ bi – yêu thương tới tất cả chúng sinh vạn loài để “giải oan kết” nhiều đời nhiều kiếp và để gieo trồng thật nhiều những hạt mầm tốt tươi trong từng thời khắc sống.

Tin hiểu vững chắc vào luật Nhân Quả, những người con của Phật (Phật Tử) phải luôn giữ trong mình một tinh thần “Nhẫn nhục” dũng mãnh và bền bỉ . Dũng cảm đối diện với nghịch cảnh – Không phản ứng lại để tiếp tục gây thêm nghiệp xấu. Không oán than, không bỏ cuộc, không thụ động, không tuyệt vọng - Mà phải luôn lạc quan, vững vàng, tự tìm niềm vui trong đau khổ để đứng lên mạnh mẽ - Xây lại cuộc đời, làm nên thật nhiều điều có ích cho mọi người – Dũng cảm trả nghiệp một cách tích cực như cách chị Hướng Dương đã làm, như cách anh Lưu Nguyễn đã làm, v.v…

Vì vậy mà cách sống “Nhẫn nhục” của đạo Phật hoàn toàn khác với lối sống nhu nhược, yếu đuối - Hay buồn khổ, sợ hãi trước cuộc đời, không biết làm gì cũng không dám làm gì để tự chuyển nghiệp của mình. Khác với lối sống hung hăng, sân hận, bất luận hoàn cảnh nào cũng cũng không thể bình an, tự tại đối diện mà tâm thức luôn sục sôi, tinh thần luôn phản kháng, lời nói - hành vi luôn bạo tàn. Khác với lối sống vô liêm sỉ, sẵn sàng luồn cúi, xu nịnh vì đói khát lợi ích cá nhân. Khác với lối sống ích kỷ - cầu an riêng cho bản thân – Luôn né tránh mọi điều gây bất lợi cho mình - Không dám lên tiếng, không dám chiến đấu bảo vệ lẽ phải, không dám bảo vệ những người cô thế - kém may mắn trong cuộc đời dù sức mình có thể.

(*)

Nhưng không phải ý thức được là sẽ ngay lập tức thực hiện được. Cả chị Hướng Dương và anh Lưu cũng đã phải trải qua một quãng thời gian dằn vặt, đau khổ, oán than cuộc đời trước khi bước đi vững vàng được trên con đường “Nhẫn nhục” – Đối diện “Nghiệp”, chấp nhận “Nghiệp” và chuyển hóa “Nghiệp”.  

Đó là vì mỗi chúng ta đều có cái tôi rất lớn – có sự chấp ngã, tự tôn về mình rất lớn. Khi nghịch cảnh tới, nó khiến chúng ta bị “tổn thất”, bị yếu kém đi và khiến ta có cảm giác mình trở nên thấp bé, bị người khác khinh rẻ, coi thường hay thương hại. Khiến chúng ta không còn “tự hào”, “kiêu mạn” về mình được nữa mà thay vào đó là sự xấu hổ, tự ti, mặc cảm – hay “Nhục nhã”.

Nghịch cảnh có thể là những tai nạn bất ngờ, có thể là sự sỉ nhục – xem thường của những người xung quanh, những thất bại, những oan trái mà người khác cố ý gieo rắc cho mình, v.v…Nói chung, nghịch cảnh là tất cả những gì đánh vào “cái tôi” của chúng ta, đánh vỡ “danh dự” của chúng ta – Và bản ngã của chúng ta luôn có xu hướng chống lại, muốn đẩy ra xa những nghịch cảnh thay vì mở lòng để đón nhận. Do đó - Do còn có “cái tôi” nên thất bại nào cũng cần một khoảng thời gian thích nghi trước khi được chấp nhận, mất mát nào cũng cần có một khoảng thời gian đau khổ để làm quen. Giai đoạn chế ngự hoàn cảnh bên ngoài chỉ có thể bắt đầu chừng nào chúng ta có thể chế ngự được sự thúc đẩy “chối bỏ” – “không muốn chấp nhận” nghịch cảnh của nội tâm bên trong.

Và có vượt lên được cái “ta”, có dấn thân hành động – đem lại an vui, hạnh phúc cho người khác thì luật Nhân Quả mới có đủ cơ sở để mang trở lại cho ta những niềm an vui, hạnh phúc trong cuộc đời.

Không ai sống nổi khi luôn chỉ chú tâm vào bất hạnh của mình, nỗi đau của mình, mất mát của mình. Hoàn cảnh chỉ tốt lên, tinh thần chỉ mạnh mẽ lên, cuộc đời chỉ tươi sáng hơn lên khi chúng ta biết tạm quên đi cái "ta" của mình mà mở lòng hướng về nỗi đau của người khác, thấu hiểu những nỗi bất hạnh của người khác - Đồng cảm, an ủi – sẻ chia và nỗ lực hết sức mà xoa dịu niềm đau cho họ.


(*)

Muốn được an vui phải gieo nhân an vui. Muốn được thoát khổ, phải giúp người thoát khổ.
Đức Phật dạy chúng ta phải đi trên con đường “Vỗ ngã” – Không có gì là “ta”, không có gì là “của ta” – Nên những người con của Phật (Phật Tử) không coi trọng cái gọi là “danh dự” do người khác ban cho, có thì dùng làm lợi ích cho đời, không còn nữa thì thôi. Điều quan trọng là trong từng khoảnh khắc sống phải làm chủ được tâm ý mình, phải kiểm soát được ba nghiệp của mình (Thân, miệng, ý) – Đừng làm những việc sai, đừng nói những điều sai, đừng dung dưỡng những ý nghĩ sai – Và phải luôn trong tâm thế sẵn sàng “Nhẫn nhục” – Sẵn sàng “Tiếp duyên, đối cảnh” – Đón nhận và chuyển hóa những “Nghiệp xấu”, những sai lầm trong nhiều đời nhiều kiếp mình đã vô minh gây tạo. 

Nghịch cảnh là nghiệp, thuận cảnh cũng là nghiệp. Nhân duyên đầy đủ thì thành công, nhân duyên đầy đủ thì thất bại. Nghiệp duyên tốt lành thì an vui, nghiệp duyên xấu ác thì “Nhẫn nhục” mà an vui. 

"Không có gì phải buồn, không có gì phải khổ. Điều quan trọng là phải đi đúng con đường."



Bình đẳng



"Bình đẳng" hay "công bằng" là điều cả thế giới luôn khát khao tìm kiếm. Phụ nữ đòi bình đẳng với đàn ông, con cái đòi ba mẹ phải đối xử bình đẳng, Trung Quốc đòi bình đẳng trong vấn đề giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính với các nước phát triển – nếu không có sự “thỏa đáng” thì cứ tiếp tục xả thải thoải mái ra môi trường cho công bằng!, v.v…

Nói là bình đẳng, nói là công bằng, nhưng thực chất tất cả chúng ta đều muốn tìm kiếm một lợi ích cá nhân theo tham muốn của riêng mình chứ chẳng mấy ai đủ sáng suốt và “công bằng” để cân đối những lợi ích mình muốn với lợi ích của số đông. Chúng ta luôn đòi hỏi rất nhiều và vì vậy luôn gây ra rất nhiều sự mất cân đối, không công bằng, mặc dù luôn tự cho rằng mình đang đi tìm sự công bằng.

Tất cả chúng ta đều có xu hướng “Thiên vị” cho chính bản thân mình, người thân của mình và những đối tượng mà mình cảm mến đặc biệt - có nhiều “duyên nợ”. Chúng ta thường cố gắng ưu ái họ nhiều hơn, dành cho họ nhiều đặc quyền, đặc lợi hơn so với những người khác. Các làng quê Việt Nam đã “thuần thục” lâu đời trong nếp nghĩ  “Một người làm quan, cả họ được nhờ” thì tình trạng “Thiên vị” này lại càng rõ nét.

(*)

Một dạng thức rất lạ trong sự thiên vị là chúng ta thường đối xử đặc biệt hơn với những người có nhiều ưu thế nổi trội hơn như ngoại hình tốt, nhiều tài lẻ, học thức cao, danh tiếng – địa vị - quyền chức lớn trong xã hội, v.v… mà không phải lúc nào cũng là do ta muốn “thấy người sang bắt quàng làm họ” để được thơm lây - Mà một cách rất tự nhiên, những con người có nhiều ưu thế nổi trội đó luôn có một sức hút rất lớn khiến cho chúng ta phải chú ý tới họ, tò mò về họ, hứng thú với họ và quan tâm tới họ nhiều hơn so với những người bình thường khác. Trái lại, những người có nhiều điểm thua thiệt, yếu kém thì thường rất mờ nhạt, nhút nhát, tự ti, không có gì ấn tượng để khiến người khác chú ý tới nên gần như bị lu mờ trong một tập thể đông người – Vì lẽ đó mà cũng dễ bị “quên lãng”, bị đối xử “bất công” so với những người có ưu thế nổi trội. Đó là vì sao?

Những người tin vào thuyết Thượng Đế sáng tạo vạn vật thì cho rằng đó là ý muốn của đấng sáng tạo, không có gì phải thắc mắc. Những người tin vào khoa học thì lý giải một cách tâm sinh lý rằng đó là vì sức thu hút của chúng ta với tâm thức người đối diện không đủ để  làm họ “ấn tượng” – không đủ để đánh động ý thức họ phải hướng về phía chúng ta mà quan tâm, chăm sóc. Mà muốn gây được ấn tượng đủ lớn thì ta phải có thật nhiều ưu thế nổi bật – đủ sức thu hút được mọi người! Vậy rồi cứ lòng vòng luẩn quẩn mà chẳng đi tới đâu! Tóm lại vẫn là có nhiều ưu thế thì được “thiên vị” và muốn được “thiên vị” thì phải nỗ lực để trở thành người có nhiều ưu thế.

Nhưng chẳng phải ai nỗ lực cho đặc biệt rồi cũng được đối xử “đặc biệt”. Như rất dễ thấy là trong lĩnh vực ca hát, rất nhiều người được đào tạo bài bản về thanh nhạc lại chẳng thu hút được đám đông nhiều như những ca sĩ chất giọng thường thường mà chiếm được cảm tình của khán giả. Vậy cái “cảm tình” đó có phải luôn tới từ tài năng và sự nỗ lực đơn thuần hay không?

(*)

Bất cứ ai muốn thành công đều phải có những “cơ duyên” đặc biệt như những cơ hội tới đúng lúc – đúng thời điểm; những sự “trợ giúp” đặc biệt như một nhà đầu tư đồng ý rót một nguồn vốn lớn – một đội ngũ nhân sự tài năng, trung thành, gắn bó và tận tâm; những “tố chất tự nhiên” vô cùng quý giá mà chẳng mấy ai có được như sự nhạy bén trên thương trường, ý chí đối diện với khó khăn, bản lĩnh vượt qua sự thất bại, may mắn vượt qua những trở ngại lớn lao một cách “thần kỳ”, v.v…

Thượng Đế không có người thông ngôn để giải thích một cách logic và thuyết phục trên trần thế, khoa học thì vẫn cặm cụi nghiên cứu nhưng tới giờ vẫn chỉ đi lòng vòng giữa giả thiết và kết luận. Chỉ có Đức Phật là trả lời rõ ràng và chi tiết, không một điểm sơ hở suốt từ hơn hai ngàn rưỡi năm nay – Đó là vì sự sai biệt về “Phước” trong Nhân Quả - Nghiệp báo.

Trên tổng sống nhiều đời, nhiều kiếp - Người làm được nhiều việc ích lợi cho cộng đồng thì có nhiều phước – Nhiều phước rồi thì bản thân sẽ có nhiều ưu thế và bối cảnh sống sẽ có nhiều thuận lợi, được nhiều người (đã mắc nợ mình) yêu thương, nâng đỡ nên dễ dàng đạt tới thành công. Vậy nên, muốn có được điều gì thì hãy giúp đỡ người khác đạt được điều đó trước. Hãy gieo nhân trước và đừng nghĩ tới ngày hái quả. Khi nào đủ điều kiện, đủ nhân – đủ duyên (khi ta đủ phước) thì quả ngọt tự sẽ tìm tới.

Muốn được người khác chú ý ư? Không phải cứ tìm mọi cách để lôi kéo sự chú ý của họ mà có được. Điều ta cần làm là phải chú ý tới họ, quan tâm họ, yêu thương – chăm sóc họ. Tới một mức họ đủ “nợ” ta quá nhiều thì họ sẽ phải “cảm động” trước tấm lòng của ta mà quay sang chú ý tới ta, quan tâm ta và yêu thương, chăm sóc ta – dù ta chẳng có ưu điểm gì nổi bật hơn so với những người khác. Đây là sự lý giải của những câu chuyện “đôi đũa lệch” đơn giản ta thường thấy ở trong đời - Từ đó mà suy luận ra  lý do tại sao ở trên đời lại có những người hết sức “ưu thế” nhưng chọn kết thân, kết hôn, thương yêu một người hết sức “kém ưu thế” như chuyện hoàng tử lấy lọ lem, cô chủ lấy người lái xe, anh chồng trẻ - đẹp – tài năng lấy chị vợ vừa lớn tuổi – ít học – lại không xinh đẹp gì, v.v… Nếu hỏi: “Tại sao chị chọn anh này, anh chọn chị này trong khi anh/chị thế này, thế kia? Thì chính bản thân họ cũng chẳng có câu trả lời chính xác, vì nguyên nhân thực sự nằm ở “món nợ” từ nhiều đời nhiều kiếp về trước.

Mọi sự chênh lệch hay nhìn như “vô lý” trong cuộc đời này thực chất đều rất “có lý” do “Nghiệp lực” (tác động của các hành vi) chúng ta đã gây ra trong nhiều đời, nhiều kiếp – Được phán xử “tuyệt đối công bằng” – sau quá trình tính toán chi ly, tỉ mỉ và dàn xếp đầy khôn khéo của luật Nhân Quả.

Không bao giờ là một đấng sáng thế, cũng không bao giờ là một nền khoa học thuần túy vật chất có thể giải thích được mọi sự chênh lệch – sai biệt ở trên đời. Chỉ duy nhất luật Nhân Quả - Luân Hồi  mới lý giải được tất cả mà thôi.

Nếu chúng ta chỉ có một đời duy nhất để sống – Nếu “Chết là hết” thì người làm trăm việc ác và người làm cả triệu việc ác cũng chẳng có gì khác biệt trong hình phạt - Bởi chưa kịp lãnh án cho hết thì đã chết mất rồi! Như vậy mới là vô lý. Như vậy mới là không công bằng.

Do đó, sự sống này không đơn giản chỉ là trên dưới “60 năm cuộc đời” – Nó là vô cùng vô tận tùy theo những gì chúng ta lựa chọn hành động. Làm một việc xấu thì chúng ta phải ở lại cõi đời để nhận lãnh một sự trừng phạt. Làm trăm ngàn việc xấu thì ta phải ở lại mà nhận cho đủ trăm ngàn sự trừng phạt – Đời này chưa kịp nhận hết thì cứ việc mà luân hồi, đầu thai trở đi trở lại mà nhận lãnh sự trừng phạt xứng đáng với những gì mình đã gây ra. Đó là sự công bằng tuyệt đối của Luật Nhân Quả - Không khoan nhượng cho bất cứ một ai. Đã làm sai là buộc phải trả giá.

Khoa học đã lên đường nghiên cứu hơn cả trăm năm rồi. Chính phủ của tất cả các quốc gia đã thành lập các trung tâm nghiên cứu chính thức từ mấy chục năm nay rồi. Bạn sẽ lên đường tìm hiểu thực hư mọi chuyện hay sẽ lại nhắm mắt, bịt tai, kiên quyết khẳng định rằng “Mặt Trời quay quanh Trái Đất” và đưa lên giàn hỏa bất cứ ai dám nói “Trái Đất quay quanh Mặt Trời” như trong suốt mấy thế kỷ của “Đêm Trường Trung Cổ”?

(*)

Trên con đường Luân hồi trả nghiệp gian nan, chúng ta hãy luôn sẵn sàng nâng đỡ nhau để cùng tiến lên phía trước – Hãy luôn sẵn lòng dìu dắt nhau cùng đi qua những chặng đường gian khó – Bởi muốn đi xa thì phải đi cùng đồng đội, đi một mình thì sẽ không bao giờ đủ sức để đến được điểm đích cuối cùng.

Với những người nhiều phước (giàu có, uy thế) thì hãy yêu thương mà dành tặng cho họ sự hờ hững, lạnh nhạt để giúp họ tiêu diệt tâm lý kiêu mạn, hay coi thường – khinh rẻ và dễ nghĩ xấu người khác. Với những ai ít phước (hay tự ti, mặc cảm, nhút nhát, rụt rè) thì hãy chú ý thật nhiều tới họ, quan tâm, yêu thương, dành cho họ sự ưu ái hết sức có thể để họ có nơi nương tựa - bám víu mà tự tin đứng lên dựng lại nhân cách, dựng lại cuộc đời. Còn với những người tin hiểu đạo lý và sống một cuộc đời đầy lợi ích cho tất cả thì hãy trân trọng, yêu quý, cư xử tử tế với họ, góp sức cùng họ tiếp tục làm nên thật nhiều điều có ích cho đời.
(*)

Phụ lục

Albert de Rochas (20/5/1837 – 2/9/1914) - Sỹ quan chỉ huy quân đội Pháp, Tùy viên Bộ tham mưu quân đội Pháp trong chiến tranh Pháp-Phổ, Hiệu trưởng trường Bách Khoa Paris – Là chuyên gia trong việc sử dụng liệu pháp thôi miên để các đối tượng nghiên cứu có thể nhớ và thuật lại được các tiền kiếp mình đã đầu thai, luân hồi.

Doanh nhân Morey Bernstein (1920 – 1999) tốt nghiệp trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania, nổi tiếng khắp nước Mỹ với câu chuyện về tiền kiếp của một người phụ nữ Mỹ - tên Virginia Tighe (một người tham gia thí nghiệm của ông, trong quá trình bị thôi miên đã kể về quá khứ kiếp trước của mình cách đó 2 thế kỷ (200 năm) bằng chất giọng Ai-len đặc sệt). Câu chuyện gây chấn động trong dư luận sau khi được đăng trên tờ Denver Post, rồi chuyển thể thành sách - Dựng lại thành phim, đánh dấu một bước ngoặt khởi động cho việc nền khoa học phương Tây hiện đại dấn thân vào con đường nghiên cứu các hiện tượng Đầu thai & Luân hồi – Hiện tượng được nhiều tôn giáo, trường phái triết học cổ, thậm chí trong cuốn Bible của đạo Thiên Chúa nguyên thủy cũng đề cập tới - Trước khi bị cố ý sửa đổi (xóa bỏ đi) vào khoảng thế kỷ thứ 4, thứ 5 bởi những nguyên nhân bí ẩn tới nay vẫn chưa xác định được rõ ràng.

Ian Pretyman Stevenson (31/10/1918 – 8/2/2007) - Tiến sỹ Y khoa, giáo sư bác sỹ tâm thần học, giảng viên Đại học Virginia, giám đốc Ban Nghiên cứu Nhân cách, trưởng Bộ môn Nghiên cứu Tri giác tại Đại học Virginia - Đã ghi nhận trên 3.000 trường hợp Luân hồi tái sinh từ khắp nơi trên thế giới, xuất bản 10 cuốn sách và rất nhiều tài liệu kinh điển trong lĩnh vực nghiên cứu Luân hồi. Ông đặc biệt quan tâm đến các vết chàm và dị tật bẩm sinh ở những đứa trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp – Có sự trùng hợp “thần kỳ” với các vết thương/vết sẹo trên người chết mà chúng nhận là kiếp trước của mình (có hồ sơ y tế xác nhận) để làm căn cứ xác minh tính trung thực  trong hàng ngàn câu chuyện tiền kiếp một cách chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Bác sĩ Edgar Casey người Mỹ nổi tiếng với hơn ba mươi ngàn trường hợp chữa bệnh nhờ thấy được nguyên nhân gây bệnh tật do nghiệp từ nhiều kiếp trước của bệnh nhân. Dorothy Louise Eady (1904 – 1981) một người phụ nữ Anh bằng ký ức nhớ được của 3000 năm trước đã giúp các nhà khảo cổ phát hiện và phục dựng được ra rất nhiều địa danh cùng kho tàng quý giá của Ai Cập Cổ đại. Chẳng cần đi đâu xa, ngay ở Việt Nam ta - Mấy năm gần đây cũng đang rộ lên câu chuyện về tiền kiếp của cậu bé Tiến (Thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình) được báo An Ninh Thủ Đô xác minh, ghi nhận. Có lẽ không người Việt Nam nào có quan tâm tới vấn đề tìm kiếm di cốt của các anh hùng liệt sỹ mà không biết tới nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng - Bằng những gì mình có thể thấy, biết và đã trải qua trong hơn nửa cuộc đời, ngay khi tiếp xúc với giáo lý luân hồi của nhà Phật chị không hề có một chút hoài nghi. Với sự cởi mở của nền khoa học hiện đại thế kỷ 21, Nhà nước ta cùng với tất cả các nhà nước trên khắp thế giới đều đã thành lập nhiều trung tâm nghiên cứu về các hiện tượng tâm linh siêu hình, những khả năng đặc biệt khoa học chưa thể lý giải được của con người chứ không còn kiên quyết phủ nhận hay né tránh như trước nữa.

Thiếu tướng, PGS, TS Ngô Tiến Quý - Viện trưởng Viện khoa học hình sự cho biết, việc  C21 tham gia vào chương trình nghiên cứu khảo nghiệm khoa học về các khả năng đặc biệt của con người là có thật và đã được sự đồng ý của các cấp lãnh đạo. Hội Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) - Thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Số 1 Đông Tác, Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) từ lâu đã trở thành nơi người dân cả nước tin tưởng tìm về để được “giao lưu” với hương linh các anh hùng liệt sỹ và ông bà tổ tiên của mình dưới sự trợ giúp của các nhà khoa học theo phương pháp thiền định tĩnh lặng nội tâm của đạo Phật.